Một nội dung quan trọng là nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng, phát huy sức mạnh toàn dân chiến thắng kẻ thù.
Huy động sức mạnh toàn dân
Ngay sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, trong buổi nói chuyện với khu trưởng và đại đội trưởng tự vệ thành Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Ký hiệp định lần này không phải là hết chiến tranh… Trái lại, hơn bao giờ hết, ta phải luôn luôn chuẩn bị để bồi dưỡng lực lượng, nâng cao tinh thần kháng chiến của toàn dân để đối phó với những việc bất ngờ bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra. Tinh thần kháng chiến, sự chuẩn bị chu đáo là phải thường trực, tiếp tục không giây phút nào ngừng”.
Tiếp đó, ngày 15/10/1946, khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Vương Thừa Vũ, Tổng Bí thư Trường Chinh đã chỉ thị: “… phải kìm chân quân địch ở Hà Nội trong một thời gian để cả nước chuyển sang chiến tranh, phải huy động sức mạnh tiềm tàng của nhân dân thành phố vào cuộc chiến đấu, đồng thời phải biết bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng để ta đánh lâu dài…”.
Theo tinh thần ấy, Thành ủy Hà Nội chủ trương phải thực hiện khẩu hiệu đại đoàn kết dân tộc, động viên mọi tầng lớp nhân dân đứng lên giữ nền độc lập và kiến quốc. Không chỉ tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến, Thành ủy Hà Nội còn chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức các hội quần chúng cứu quốc để làm hạt nhân tổ chức, tập hợp nhân dân kháng chiến.
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội đã có các nhóm cứu quốc bí mật nhưng số lượng rất ít. Khi chuẩn bị kháng chiến, phong trào phát triển nhanh, Mặt trận Hà Nội thiếu lực lượng, thiếu cán bộ nghiêm trọng. Thành ủy đã nhanh chóng phát triển đảng viên nhằm vào những quần chúng hăng hái nhất, nhất là lớp thanh niên công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị, thợ thủ công, sinh viên, học sinh. Chỉ trong một thời gian ngắn, Hà Nội đã phát triển từ 200 đảng viên lên 400 đảng viên với chất lượng rất tốt và đã tổ chức được các chi bộ theo ngành, theo xí nghiệp và theo đường phố.
Thiết tha giữ độc lập
Thực hiện chủ trương thu hút nhân tài gánh vác việc nước, Thành ủy đã mời một số nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản dân tộc tham gia ủy ban nhân dân thành phố. Nhiều nhân viên kỹ thuật và công chức chế độ cũ có tinh thần yêu nước cũng tự nguyện tham gia chính quyền Thủ đô. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập (5-1946) thu hút nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, tư sản dân tộc, chức sắc giáo hội và Hoa kiều.
Mặt trận Việt Minh tự nguyện trở thành một thành viên của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam để đoàn kết, thu hút lực lượng. Nhiều tổ chức quần chúng mới ra đời như: Tổng Liên đoàn Lao động, Đảng xã hội Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất trên địa bàn Hà Nội được mở rộng và củng cố thêm một bước.
Những cố gắng của Hà Nội trong xây dựng chính quyền, các tổ chức quần chúng và trong vận động chính trị trong các tầng lớp nhân dân đã thu được kết quả có ý nghĩa quyết định đến xây dựng lực lượng kháng chiến. Đông đảo nhân dân Hà Nội đã có lòng tin với chế độ mới, rất thiết tha với nền độc lập dân tộc vừa mới giành được. Khi kháng chiến bùng nổ, mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, trai gái, giàu nghèo đều nhiệt tình tham gia kháng chiến.
Thành ủy và ủy ban nhân dân thành phố đã gắn liền nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang với nhiệm vụ xây dựng ngoại thành thành “vành đai đỏ”, tạo thành an toàn khu cho các cơ quan Trung ương và Xứ ủy. Trong những ngày chuẩn bị kháng chiến, ngoài lực lượng vệ quốc đoàn trực thuộc Trung ương và và công an xung phong trực thuộc Sở công an Bắc Bộ, Thành ủy và ủy ban nhân dân đã trực tiếp xây dựng và lãnh đạo các lực lượng vũ trang Thủ đô bao gồm: Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, Tự vệ xí nghiệp, Tự vệ Thành và dân quân tự vệ ngoại thành.
Biết địch, dám đánh địch
Không chỉ huy động được đông đảo nhân dân tham gia kháng chiến, Mặt trận Hà Nội còn tổ chức sử dụng lực lượng một cách khoa học đảm bảo đánh địch có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bảo toàn phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài.
Khi kháng chiến bùng nổ, quân Pháp ở Hà Nội có 6.500 quân, được trang bị 5.000 súng trường, 600 tiểu liên, 150 trung liên, đại liên, 42 khẩu pháo, 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp, 30 máy bay và một số tàu chiến trên sông. Chúng đóng quân ở 54 vị trí xen kẽ với ta trong thành phố và đã chiếm được những vị trí quân sự, chính trị có lợi nhất như: Thành Hà Nội, Phủ Toàn quyền, Trường Anbe Xarô, Trường Bưởi, khu Đồn Thủy, sân bay Gia Lâm. Ngoài ra, nhiều gia đình trong hơn 7.000 Pháp kiều cũng được trang bị vũ khí và được tổ chức thành nhiều ổ chiến đấu độc lập ở các khu phố Tây.
Lực lượng ta có 5 tiểu đoàn vệ quốc đoàn (101, 77, 212, 145, 523), 1 đại đội cảnh vệ, 4 trung đội pháo ở các pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo. Tổng quân số là 2.515 người, trang bị chủ yếu là súng trường và một số khẩu pháo cối. Lực lượng tự vệ có Tự vệ cứu quốc Hoàng Diệu 300 người, tự vệ Thành khoảng 8.500 người, tự vệ ở các nhà máy điện, nhà máy nước Yên Phụ, xưởng sửa chữa xe lửa Gia Lâm, ga Hàng Cỏ… mỗi nơi có từ một trung đội đến một đại đội. Vũ khí của các lực lượng tự vệ có khoảng 500-600 súng trường, 2 trung liên, một số mìn, lựu đạn, còn lại là giáo mác, dao kiếm.
Ngoài ra, Khu còn tổ chức 13 đội quyết tử đánh xe tăng và 36 tổ du kích đặc biệt. Căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ Tổng chỉ huy giao và tình hình mọi mặt, Bộ chỉ huy Chiến khu 11 (Mặt trận Hà Nội) chủ trương: Nắm quyền chủ động tập trung lực lượng bất ngờ tập kích các vị trí quân Pháp, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận địch, sau đó tổ chức khu tác chiến dài ngày trong thành phố; đặt chướng ngại vật ngăn chặn địch đánh chiếm các phố và tỏa ra các cửa ô, kết hợp trong ngoài cùng đánh...
(Còn tiếp)