Ngán ngẩm như tiến sỹ kiểu “cơm chấm cơm”

Siết đào tạo tiến sỹ có dễ?
Siết đào tạo tiến sỹ có dễ?
(PLO) - Câu chuyện lạm phát tiến sỹ vẫn đang là đề tài dư luận quan tâm nhất hiện nay. Bởi nếu trước đây, tình trạng “cơm chấm cơm” chỉ có ở bậc tại chức, thì nay tiến sỹ cũng đã trở thành một thị trường dễ như... tại chức. Liên quan đến câu chuyện này, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) cho biết sẽ siết chặt việc quản lý đào tạo trình độ tiến sỹ trong thời gian tới. Hiện nay, Bộ GD - ĐT đang soạn thảo Quy chế mới thay cho Quy chế đào tạo tiến sỹ hiện hành. 

“Có vị vài năm ra lò vài chục tiến sỹ…”

Theo GS. Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, sở dĩ  đào tạo tiến sỹ (TS) ở việt Nam thời gian qua bị dư luận cho rằng đang “lạm phát” là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất,  không có kế hoạch dài hạn về đào tạo. Ví dụ, chúng ta không có thống kê xem từ nay đến năm 2020 mỗi ngành, cần bao nhiêu TS, thạc sĩ. Cho nên đào tạo có thể thừa, có thể thiếu. Thứ hai, nếu đào tạo đều “chuẩn” thì có lẽ không ai kêu. Nhưng vì đào tạo dở nhiều nên dư luận bức xúc. Nhiều TS nhưng trình độ không đúng TS, làm các công việc được đào tạo không đúng tầm của một TS nên dư luận kêu vì thấy nhiều người như thế quá. Đào tạo nhưng không dùng được.

GS. Phạm Tất Dong bày tỏ các quan điểm: Hiện tại học viên tốt nghiệp đại học, trình độ kém, không có việc làm, học viên thường làm luôn thạc sĩ, làm thạc sĩ xong lại lên TS. Tất nhiên, một số người học thạc sĩ có việc làm nhưng muốn lên cương vị nào đó thì tiếp tục làm lên TS. Như vậy theo GS. Dong, vấn đề này đã trở thành một thị trường lớn, trong khi đó chỉ tiêu các trường cứ tuyển. 

Điều thứ hai mà GS. Phạm Tất Dong muốn nói tới chính là từ ông thầy kém. Đội ngũ này theo GS. Dong không phải hiếm. “Xã hội bức xúc là đúng. Vì người ta kỳ vọng nước mình có nhiều TS thì phải xoay chuyển được cái gì đó trong xã hội. Nhưng thực tế đã không xoay chuyển được mà nhiều khi còn không có tác dụng gì. Nhưng tôi nghĩ, nếu thầy giỏi, đào tạo nhiều thì vẫn ổn”, GS. Phạm Tất Dong nêu quan điểm. Và nữa: “Bộ có thể quy định cụ thể một giáo sư được hướng dẫn bằng này, nhưng Bộ không kiểm tra được thực tế họ hướng dẫn bao nhiêu. Bộ nắm con số tổng chỉ tiêu đào tạo TS nhưng không nắm được những ai là người đào tạo ra số này. Chính vì vậy, có những người trong vòng mấy năm đào tạo, hướng dẫn mấy chục thạc sĩ, TS”, GS. Phạm Tất Dong thẳng thắn.

Bên cạnh việc Bộ khó quản lí thì “lỗ hổng” khác còn đáng sợ hơn, đó là các hội đồng Bộ GD-ĐT cũng không nắm chắc. Vì thực tế nhiều nơi đào tạo nhưng không đủ người đúng chuyên môn để chấm luận án nên các thành viên không “thuần chủng”, tức là người chấm có thể khác ngành với luận án được bảo vệ. Nguyên nhân theo GS. Dong là do nước ta không đủ sức làm việc này nên có khi trong một hội đồng có tới 3, 4 chuyên môn khác nhau. Một yếu tố nữa có ảnh hưởng tới chất lượng luận án được GS. Phạm Tất Dong nêu lên có liên quan tới chính sách của người hướng dẫn, người chấm luận án còn quá rẻ mạt. Do đó nhiều người được giao cũng chỉ làm cho xong.

Hiện nay Bộ GD-ĐT có quy định sẽ thẩm định (xác xuất) lại 10% luận án, điều này có đủ để khẳng định được chất lượng của từng đề tài hay không? Nêu quan điểm về quy định này, GS. Phạm Tất Dong cho biết, ngay trong ngành của GS. Dong cũng chưa thấy luận án nào bị trả lại. “Nhưng tôi nghĩ, đã thẩm định thì thẩm định hết, sao lại 10%. Nếu vậy sẽ có “lọt lưới”. Vì  trong số 90% còn lại giả sử có khoảng  20% chất lượng tồi thì sao? Như thế là quá hình thức. Ở nước ngoài, tôi nghĩ không làm thế. Tất cả phải được  thẩm định. Tôi nghĩ những quy định này chỉ mang tính định lượng mà không đi vào được nội dung của vấn đề”, GS. Dong nói.

Theo chia sẻ của nhiều giáo sư, sự thật là làm luận án TS rất tốn, tốn những khoản ngoài luận văn. “Tôi có hỏi một học trò của mình, cô ấy cho biết, ra hội đồng cơ sở thôi cũng phải chuẩn bị 50 triệu. Tôi không biết thực hư thế nào, nhưng thực tế, tôi thấy tốn ở chỗ này. Nhà nước lẽ ra phải trả tiền cho những người làm phản biện. Nhưng Nhà nước trả nhỏ giọt, không đáng bao nhiêu nên nghiên cứu sinh rất sợ điều này. Khi mang luận văn đến người chấm phải nhét phong bì vào. Thầy có trả lại, có khi nghiên cứu sinh lại hoảng, lại nghĩ đưa ít quá, phải đưa nhiều hơn. Lẽ ra, Nhà nước phải  trả đủ công sức cho thầy thì sẽ không có chuyện đó. Tức là chúng ta phải làm thế nào để nghiên cứu sinh không phải bỏ tiền ra vì những chuyện thế này. Còn hiện nay, Nhà nước đang đánh giá lao động trí tuệ quá rẻ mạt” – một giáo sư bày tỏ.

Không “nặn” tiến sỹ bằng mọi giá

Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, năm học 2014 - 2015, tổng quy mô đào tạo TS trên cả nước lên tới 10.352 nghiên cứu sinh. Với số lượng nhiều nghiên cứu sinh tiếp tục đặt ra bài toán quá tải trong phân công người hướng dẫn. Việc đào tạo TS đòi hỏi nhiều công sức và thời gian, trong khi không ít người học theo phương thức vừa học vừa làm khiến chất lượng nghiên cứu rất hạn chế.

Cách đây không lâu, Hà Nội công bố “chiến lược cán bộ công chức” với mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu 100% cán bộ khối chính quyền diện Thành ủy quản lý có trình độ TS, trong khi đó ở Mỹ, Úc và nhiều nước khác, TS chỉ làm việc trong các viện nghiên cứu, trường học. Nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận từng nói: “Ở Việt Nam đang có xu hướng phổ cập TS”.

Nói về chất lượng của luận án TS tại những đơn vị có chỉ tiêu đào tạo lớn, bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD- ĐT) cho rằng, số lượng luận án được bảo vệ trong một khoảng thời gian nhất định không phải là yếu tố phản ánh chất lượng đào tạo, bởi một luận án phải được thực hiện trong nhiều năm. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo trình độ TS ở Việt Nam chưa cao như ở các nước phát triển. Dù vậy, theo bà Phụng, kết quả đào tạo nên được đánh giá một cách công bằng, dựa trên điều kiện đào tạo ở nước ta so với các nước phát triển. 

Ở thời điểm năm 2009, nếu Quy chế đào tạo TS đề ra hệ tiêu chuẩn quá cao thì nhiều cơ sở đào tạo không thể đáp ứng được, dẫn đến phải đóng cửa, dừng tuyển sinh, như vậy thì chính sách đề ra là không khả thi. Thực tế cho thấy trong 6 năm thực hiện Quy chế đào tạo TS, năm 2011, Bộ đã rà soát điều kiện bảo đảm chất lượng và đã dừng tuyển sinh đối với 101 chuyên ngành của 35 cơ sở đào tạo TS, đưa ra cảnh báo đối với 38 chuyên ngành của 18 cơ sở đào tạo khác do thiếu giảng viên cơ hữu. Năm 2012, Bộ chính thức thu hồi quyết định đào tạo TS đối với 57 chuyên ngành thuộc 27 cơ sở đào tạo sau khi các cơ sở này không khắc phục được tình trạng thiếu giảng viên. Từ năm 2012, Bộ đã siết chặt hơn việc thẩm định hồ sơ, luận án thông qua việc sửa đổi, bổ sung Quy chế đào tạo. 

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng cho biết, hiện nay, Bộ GD-ĐT tiếp tục thực hiện giải pháp nâng chuẩn đào tạo trình độ TS, trong đó có việc xây dựng dự thảo Quy chế mới để thay cho Quy chế đào tạo hiện hành. Quy chế mới sẽ có các điều khoản quy định chặt chẽ hơn về đội ngũ giảng viên, quy trình kiểm tra - xác nhận các điều kiện bảo đảm chất lượng thực tế ở cơ sở đào tạo... giúp nâng cao năng lực giám sát một số vấn đề trong công tác đào tạo TS vốn đang khiến dư luận băn khoăn.

Thế nhưng, theo nhận xét thẳng thắn của nhiều chuyên gia, chất lượng đào tạo TS hiện nay rất thấp bởi cách đào tạo không khác gì tại chức, nghĩa là nghiên cứu sinh ngồi tại cơ quan mình làm việc, địa phương mình sinh sống để làm luận án, thỉnh thoảng mới gặp thầy hướng dẫn. Một Phó Giáo sư công tác tại trường ĐH hàng đầu ở Hà Nội cho rằng, quy chế đào tạo TS của Bộ GD-ĐT nhìn qua khá chặt chẽ nhưng có lẽ học TS bây giờ là dễ nhất trong các bậc học. Không ít cơ sở có “giấy phép” đào tạo TS và xem đây như một cách kinh doanh. “Tôi biết có những trường để “chiều lòng” thị trường đã cho học viên nợ cả đầu vào tiếng Anh khi nộp hồ sơ dự tuyển. Đấy là chưa kể tình trạng học hộ, thi hộ, tệ hại hơn nữa là viết luận án hộ….” - vị Phó Giáo sư dẫn chứng.

Một vị giáo sư làm việc tại Hàn Quốc đề xuất: “Thời đại toàn cầu hóa, nếu ta cần nhân lực chất lượng cao ở bậc TS, có thể thuê nhân lực nước ngoài, thay vì bằng mọi giá (kể cả hạ chuẩn) để “nặn” ra bằng được một TS. Mặt khác, cần có quy định khẩn trương và hiệu quả nhằm thắt chặt cả 2 khâu: đầu vào và đầu ra, đó là tiếng Anh và bài báo trên tạp chí quốc tế”, vị giáo sư này bày tỏ./.

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt

Thủ tướng phát lệnh đưa vào khai thác cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và Diễn Châu - Bãi Vọt

Chiều 28/4, tại tỉnh Ninh Thuận, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải (Ban Chỉ đạo) dự Lễ khánh thành Dự án đường bộ cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo và thông xe đưa vào khai thác dự án cao tốc Diễn Châu - Bãi Vọt (đoạn từ Diễn Châu đến Quốc lộ 46B).

Đọc thêm

Chiến thắng Điện Biên Phủ: Chiến thắng của sức mạnh chính nghĩa Việt Nam

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: tư liệu).
(PLVN) - Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954) được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của Nhân dân của các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Mãi mãi tỏa sáng theo thời gian, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh chính nghĩa Việt Nam.

Phó Thủ tướng Chính phủ dự lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ tại Kiên Giang

Phó Thủ tướng Chính phủ dự lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ tại Kiên Giang
(PLVN) - Ngày 27/4, tại huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang, UBND tỉnh đã tổ chức lễ khánh thành Đền thờ Anh hùng liệt sĩ lực lượng vũ trang nhân dân và Thanh niên xung phong hy sinh trên tuyến đường 1C và tu bổ cấp thiết di tích lịch sử cách mạng bia tưởng niệm tuyến đường 1C. Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cùng nhiều đại biểu dâng hương và trồng cây lưu niệm.

Đại tướng Phan Văn Giang gửi Thư khen động viên lực lượng thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ

Đại tướng Phan Văn Giang. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân
(PLVN) -  Nhằm động viên các lực lượng thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2014), Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi thư khen động viên cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Dưới đây là nội dung Thư của Đại tướng Phan Văn Giang:

Cần quy định rõ “kinh tế hóa” ngành tài nguyên, khoáng sản

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, cần nghiên cứu để quy định rõ việc xử lý trong trường hợp khoáng sản đó gồm nhiều loại khoáng sản khác nhau. (Ảnh: Quochoi.vn)
(PLVN) - Cho ý kiến về dự án Luật Địa chất và Khoáng sản tại phiên họp vừa diễn ra, các ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị rà soát, hoàn thiện cơ chế quản lý theo nguyên tắc thị trường, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản bảo đảm công khai, minh bạch, chống tiêu cực, lãng phí tài nguyên khoáng sản, tăng nguồn thu cho ngân sách.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng: Phản bác các luận điệu xuyên tạc về công tác cán bộ

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bàn về công tác quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2026 - 2031. (Ảnh: Đăng Khoa)
(PLVN) - Nhờ những chủ trương đúng đắn, sáng suốt và sự lãnh đạo quyết liệt, linh hoạt của Đảng, công tác cán bộ của nước ta thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, lợi dụng những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức xuyên tạc, bôi nhọ, nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh
(PLVN) - Nhân kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), sáng 26/4, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và dâng hương, tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ tại Đài Tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ trên đường Bắc Sơn.

Báo cáo Nhân quyền của Hoa Kỳ nhận định không khách quan về thực tế tại Việt Nam

Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng.
(PLVN) - "Báo cáo Nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 22/4/2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam".

Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và Động viên công nghiệp: Bảo đảm xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, lưỡng dụng

Đại tướng Phan Văn Giang tham quan Nhà máy Z131 (Tổng cục CNQP). (Ảnh: Lam Hạnh)
(PLVN) - Mới đây Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng các đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên đã có buổi tiếp xúc cử tri chuyên đề lấy ý kiến vào dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và Động viên công nghiệp trên địa bàn Thái Nguyên trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.

Tạo sự đồng thuận, thống nhất trong tổ chức thực hiện biên chế

Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế đánh giá kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời xác định một số nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2026. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Hôm qua (24/4), tại Trụ sở Văn phòng Trung ương Đảng đã diễn ra Hội nghị Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế (Phiên họp thứ 3). Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế Trương Thị Mai chủ trì Hội nghị.