Nhiều quy định không cần thiết
Điều 9.1 của Dự thảo quy định các trường hợp các hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp phải lập, thẩm định và xin phê duyệt dự án kinh tế trang trại. Nếu đủ điều kiện và thành phần hồ sơ thì UBND cấp huyện sẽ ban hành Quyết định phê duyệt dự án kinh tế trang trại.
Tại Văn bản góp ý với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông, VCCI cho rằng, nội dung trên là trái luật và không cần thiết với lý do: “Quy định này là một dạng điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại Điều 7 của Luật Đầu tư.
Tuy nhiên, trong các ngành nghề kinh tế trang trại, chỉ có chăn nuôi và kinh doanh thuỷ sản được quy định tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư – Mục 167, trong đó nuôi trồng thuỷ sản chỉ áp dụng đối với nuôi lồng bè và thuỷ sản chủ lực (cá tra, tôm sú, tôm thẻ chân trắng).
Các ngành nghề như trồng trọt, lâm nghiệp, làm muối, và nuôi trồng thuỷ sản khác không thuộc danh mục Phụ lục 4 của Luật Đầu tư. Vì thế các cá nhân, tổ chức không cần đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh cũng như không phải xin phép trước khi thực hiện ở bất kỳ quy mô nào” – đơn vị đại diện cộng đồng doanh nghiệp nêu ý kiến.
Theo VCCI, Chương III Dự thảo bao gồm nhiều quy định đặt thêm các rào cản gia nhập thị trường, thủ tục hành chính, giấy phép “con”, nghĩa vụ báo cáo cho hoạt động kinh tế trang trại. Các quy định này dự báo sẽ làm tăng chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý, có thể cản trở việc phát triển kinh tế trang trại tại Việt Nam. Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc việc có một chương về quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại, đặc biệt là các vấn đề mang tính giấy phép, thủ tục, báo cáo.
Ngoài ra, đối với các trang trại chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản lồng bè, chủ lực thì giấy phép này này sẽ chồng chéo với các loại giấy chứng nhận đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đã có trong pháp luật về chăn nuôi, thuỷ sản.
Bên cạnh đó, VCCI cho rằng, tờ trình của dự thảo chưa thuyết minh rõ lý do vì sao cần có thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt dự án kinh tế trang trại.
Điều 7.1 của Luật Đầu tư cũng quy định việc ban hành các điều kiện đầu tư kinh doanh chỉ được đặt ra khi thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng.
Mặt khác, tờ trình cũng chưa làm rõ việc một cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp ở quy mô trang trại thì ảnh hưởng như thế nào đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng đến mức Nhà nước cần phải cấp phép.
Lưu ý, cá nhân, tổ chức vẫn phải đáp ứng các quy định về đất đai, xây dựng, đầu tư, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm,… trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Với các lý do nêu trên, VCCI đề nghị bãi bỏ quy định về việc phải lập, thẩm định và phê duyệt dự án kinh tế trang trại.
Nguyên tắc ưu tiên dễ dẫn đến cơ chế “xin – cho”
Điều 15.2.c của dự thảo quy định theo hướng: Trong trường hợp có nhiều trang trại đề nghị hỗ trợ thì ưu tiên các trang trại sản xuất quy mô lớn có hiệu quả trong nhiều năm; sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng an toàn, hữu cơ; ứng dụng công nghệ cao; có liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Theo VCCI, đây đều là các chỉ tiêu chung chung, định tính và chắc chắn sẽ dẫn đến cơ chế “xin-cho” trong quá trình áp dụng.
Về thủ tục hỗ trợ, Điều 16 của Dự thảo thiết kế thủ tục hỗ trợ theo các bước như sau: UBND cấp huyện thông báo dự kiến danh mục hỗ trợ và gửi cho UBND cấp xã > UBND cấp xã thông báo cho trang trại trên địa bàn > Chủ trang trại làm đơn đề nghị hỗ trợ gửi UBND cấp huyện > UBND cấp huyện lập danh mục đề nghị hỗ trợ hàng năm gửi UBND cấp tỉnh > UBND cấp tỉnh phê duyệt ngân sách hỗ trợ gửi cho UBND cấp huyện > UBND cấp huyện rà soát, ra quyết định phê duyệt danh mục hỗ trợ > Chủ trang trại lại tiếp tục làm hồ sơ gửi UBND cấp huyện > UBND cấp huyện thẩm định hồ sơ và phê duyệt chính sách hỗ trợ cho trang trại > UBND cấp huyện thông báo quyết định cho chủ trang trại và phòng ban liên quan > Chủ trang trại làm đề nghị thanh toán gửi kho bạc Nhà nước > Phòng chuyên môn hướng dẫn chủ trang trại lập hồ sơ trình đối với chính sách hỗ trợ yêu cầu trình tự, thủ tục riêng.
Theo VCCI, đây là một trình tự thủ tục quá dài, đầy rủi ro cho các chủ trang trại. Đứng từ góc độ chủ trang trại, khi phải thực hiện quá nhiều thủ tục, thời gian kéo dài, chờ đợi nhiều cơ quan cho ý kiến quyết định và có thể bị chậm trễ, gây khó dễ hoặc bị từ chối ở bất kỳ khâu nào, sẽ có rất ít chủ trang trại muốn tham gia.
Thực tế nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong các lĩnh vực khác cho thấy, hai vấn đề thường gặp dẫn đến sự không hiệu quả của các khoản hỗ trợ là: (1) sự thiếu minh bạch của tiêu chí hỗ trợ, cơ chế xin cho khiến cho các nguồn lực của Nhà nước bị lãng phí hoặc thất thoát; (2) trình tự thủ tục quá phức tạp làm nản lòng người đáng được hỗ trợ.
“Do đó, đề nghị sửa Điều 15 và 16 của dự thảo theo hướng tiêu chí trang trại được hỗ trợ phải khách quan, minh bạch và định lượng. Thủ tục hỗ trợ đơn giản, thời gian ngắn, bảo đảm chủ trang trại chỉ cần đáp ứng đúng điều kiện là chắc chắn được hỗ trợ” – VCCI kiến nghị.