Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, ngay phiên khai mạc, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết: Sau suy giảm, Chính phủ đang tập trung các giải pháp để tái cấu trúc nền kinh tế.
Đến kỳ họp thứ 8, đại biểu QH Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội một lần nữa tha thiết đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm có cơ chế và chính sách để đẩy nhanh tái cấu trúc nền kinh tế. Vì sao đây là vấn đề cấp thiết? Ông Nguyễn Đức Kiên cho biết:
Bài toán không đi chệch mục tiêu
- Tái cấu trúc nền kinh tế có rất nhiều cấp độ nhưng ở tầm Quốc hội và Chính phủ thì đó là cơ chế, ở tầm của Đảng thì phải có định hướng.
Tái cơ cấu nền kinh tế không phải là một vấn đề gì mới đối với nền kinh tế Việt Nam. Ví dụ năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI, chúng ta bắt đầu tái cơ cấu nền kinh tế để thoát ra khỏi nền kinh tế bao cấp. Năm 1997, bốn năm sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam, chúng ta tái cơ cấu nền kinh tế và lấy xuất khẩu làm trọng tâm đột phá và phát triển đất nước. Kết quả của hai đợt tái cơ cấu nền kinh tế đều tạo ra những đột phá quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Đến nay, sau gần 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cộng thêm bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của WTO, đặc biệt là sau 2 cuộc khủng hoảng kinh tế, tình hình (bối cảnh) mới đang đặt ra cho Việt Nam những yêu cầu mới về điểm nhấn trong tái cấu trúc nền kinh tế. Tôi cho rằng, đây chính là thời điểm chúng ta định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thoát ra khỏi “cái bẫy” nước có thu nhập trung bình trong quá trình phát triển (kém phát triển).
Yêu cầu bức thiết hiện nay là phải có cơ chế và chính sách để phục vụ tốt hơn nữa cho việc ưu tiên phát triển thị trường nội địa, đồng thời chọn mặt hàng để phát triển tái cơ cấu và đảm bảo cân đối xuất nhập khẩu. Chúng ta phải phấn đấu đến năm 2015 cân đối được cán cân thương mại là xuất khẩu và nhập khẩu.
Một vấn đề nữa theo tôi cần lưu ý khi tái cấu trúc nền kinh tế là phải đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải. Chúng ta phải chấp nhận có địa phương, có lĩnh vực đi trước, có địa phương, có lĩnh vực đi sau.
- Nếu chấp nhận đầu tư có trọng điểm thì vấn đề là làm thế nào để những địa chỉ được đầu tư không đi chệch mục tiêu khi câu chuyện về hiệu quả không như mong đợi của một số tập đoàn, TC ty nhà nước được ưu ái quá nhiều trong thời gian qua là ví dụ?
- Đối với các Tập đoàn và TCty, chúng ta phải khẳng định rằng, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội là nhất quán. Không có nước nào trên thế giới phát triển trở thành nước công nghiệp nhờ các DN vừa và nhỏ. Người ta chỉ phát triển DN vừa và nhỏ trên cơ sở đã có những DN then chốt làm xương sống.
- Có nghĩa là về mặt lý thuyết, việc tập trung nhiều cơ chế ưu đãi để các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phát triển là đúng?
- Lý do gì mà một chủ trương đúng cứ loay hoay và vấp váp khi áp dụng vào thực tế, thưa ông?
- Vẫn loay hoay bởi chúng ta đang trong quá trình định hình. Chúng ta vừa muốn có các DN lớn có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế đồng thời với phát triển các loại hình DN khác để thực hiện CNH rút ngắn. Chính phủ muốn tạo sự bình đẳng cho các loại hình DN, không phân biệt DN sở hữu nhà nước hay tư nhân, nhưng chúng ta không hình dung ra được quá trình hình thành và phát triển 1 DN lớn đến mức đủ sức để tạo động lực lôi cuốn các DN khác mất bao nhiêu năm. Mặt khác, với DNNN chúng ta cũng chưa có kinh nghiệm trong xây dựng cơ chế quản lý của một DN đại chúng.
Một DN đại chúng là một Cty CP có rất nhiều cổ đông tham gia và quyết định trên thị trường. Như vậy, đối với DNNN thì người điều hành DNNN cũng không phải là chủ. Cả hai loại hình DN: NN và CP đều có Ban giám đốc điều hành và HĐQT, nhưng DN cổ phần thì có đại hội cổ đông, trong khi DNNN thì không. Không có đại hội cổ đông thì anh không công khai, minh bạch tất cả các hoạt động của DN nên không có cơ chế để kiểm tra, giám sát hiệu quả các hoạt động kinh doanh.
Nói cách khác, tại các tập đoàn, TCty nhà nước, công tác giám sát của chúng ta hơi bị lơi lỏng.
- Không có giám sát của cổ đông nhưng các tập đoàn, TCty nhà nước chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội, tại sao những vấn đề mà Vinashin gặp phải trong thời gian dài không được Quốc hội “phanh” lại?
- Quốc hội đã và vẫn đang thực hiện quyền giám sát đối với việc sử dụng vốn của các tập đoàn, TCty nhà nước. Tại kết quả giám sát tháng 9/2009, Quốc hội đã chỉ ra rằng nợ của Vinashin chiếm gần 90% tổng số nợ của các DNNN Để “phanh” lại, Quốc hội đã đề nghị Chính phủ khẩn trương tiến hành xử lý nợ của Vinashin và trên thực tế thì Chính phủ đã rất kiên quyết trong việc xử lý khoản nợ này. Có điều, cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội nước ta cũng như quốc hội của nhiều nước khác là không tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành mà là xây dựng pháp luật và giám sát việc thực thi nên từ chính sách đến cuộc sống cần 1 khoảng thời gian nhất định để chuyển tải.
Phá sản, không phá sản: ranh giới mong manh
- Bên hành lang Quốc hội, ông có nói rằng nói Vinashin chưa phá sản cũng đúng mà nói Vinashin phá sản cũng không sai, đó có phải là mâu thuẫn?
- Hoàn toàn không. Nói Vinashin chưa phá sản là căn cứ báo cáo tài chính của Tập đoàn được thực hiện để báo cáo với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, vì tài sản trên sổ sách của Vinashin khi cân đối vẫn còn và Chính phủ không đem tất cả tài sản của Vinashin ra bán mà tái cơ cấu lại Vinashin.
Còn nói Vinashin phá sản cũng không sai vì nhìn vào khoản lỗ năm sau cao hơn năm trước của Vinashin, đối chiếu với các mục tiêu ban đầu thành lập Tập đoàn và cách thức Chính phủ xử lý đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Việc Chính phủ chia Vinashin làm 3, chuyển cho Vinalines toàn bộ đội tàu, chuyển cho Tập đoàn Dầu khí các dự án Vinashin đang làm dang dở, đi đàm phán lại nợ, tái cơ cấu nợ, không cho Vinashin lập thêm các công ty con, không cho kinh doanh chứng khoán… là những động tác thực hiện đối với một doanh nghiệp phá sản.
Với những động thái này, Chính phủ đã tạo ra một Vinashin hoàn toàn mới.
- Quan sát các động thái kiên quyết của Chính phủ, theo ông, có còn cơ hội cho ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam gượng dậy không?
- Muốn gượng dậy ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam thì Vinashin phải trở thành mũi nhọn về cơ khí theo hướng không phải hình thành lợi nhuận từ bản thân việc đóng tàu, mà phải tạo ra lợi nhuận từ công nghiệp phụ trợ. Cái sai của Vinashin là nhầm lẫn về định hướng.
- Xin cảm ơn ông!
- Tại phiên Quốc hội thảo luận về tình hình kinh tế, xã hội ngày 1/11, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết (Lạng Sơn) gây chấn động dư luận khi phân tích những sai phạm của Vinashin: “Tập đoàn Vinashin sụp đổ đã trút lên vai đồng bào món nợ khổng lồ không dưới 100.000 tỷ đồng. Món nợ mà một tỉnh thu nhập cỡ 1000 tỷ đồng một năm phải làm quần quật không mua sắm, ăn uống, may mặc gì suốt, một thế kỷ mới trả nổi. Đối với đồng bào nhiều nơi nhất là nông thôn. miền núi thì trả món nợ khổng lồ này có nghĩa là chậm làm đường, làm cầu, xây trường, xây bệnh viện v.v..”. Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết cũng đề nghị Ủy ban Thường vụ QH biểu quyết để QH lập Ủy ban lâm thời điều tra trách nhiệm thành viên Chính phủ khi để xảy ra sai phạm ở Vinashin và bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên Chính phủ liên quan. Tuy nhiên, ngày 11/11, Ủy ban thường vụ QH đã bác đề nghị của đại biểu Nguyễn Minh Thuyết do “vấn đề của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Vinashin đang được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước xem xét, trong đó có việc cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra”. |