Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Quan hệ giữa pháp luật, pháp chế, pháp quyền trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam

Pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước (Ảnh: Người dân góp ý xây dựng chính quyền).
Pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước (Ảnh: Người dân góp ý xây dựng chính quyền).
(PLVN) - Để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải xử lý đúng nguyên tắc pháp quyền và phân quyền nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước bằng luật pháp, trong đó có quyền lực trong lĩnh vực luật pháp được thể hiện ở mối quan hệ giữa pháp luật, pháp chế và pháp quyền.

Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ “pháp quyền” được sử dụng phổ biến, còn trước Đổi mới (năm 1986) thường sử dụng thuật ngữ “pháp chế”. Cả pháp quyền và pháp chế đều phải xuất phát từ pháp luật, dựa vào pháp luật và nhằm bảo đảm thượng tôn pháp luật.

Về pháp luật

Pháp luật (hay luật pháp) là phương tiện ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Không chỉ vậy, pháp luật còn quy định cả cơ chế pháp lý, các thủ tục pháp luật để thực hiện nghiêm minh pháp luật.

Khoản 1 Điều 8 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”. Hiện nay, việc thể chế hóa điều khoản này diễn ra ở 3 khâu cơ bản.

Thứ nhất, về xây dựng pháp luật. Cho đến nay, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền đã nghiên cứu và ban hành một hệ thống lớn các văn bản pháp luật để điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội. Có thể nói, về số lượng, hiện không thiếu các văn bản pháp luật, nhưng đang nảy sinh một số vấn đề về chất lượng và tuân thủ thực hiện pháp luật.

Thứ hai, về thực hiện luật. Khâu này gồm 2 cơ chế là cơ chế điều chỉnh pháp luật (bao gồm tổng thể các yếu tố pháp lý bảo đảm sự tác động của pháp luật đến các quan hệ của đời sống xã hội) và cơ chế hoạt động xã hội của pháp luật. Nếu “cơ chế điều chỉnh pháp luật” là các yếu tố pháp lý thuần túy, thì “cơ chế hoạt động xã hội của pháp luật” gồm những tác động đan xen cả yếu tố pháp lý và yếu tố xã hội trong việc thực hiện pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.

PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn.

PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn.

Thứ ba, về ý thức pháp luật. Khâu này được thể hiện cụ thể nhất ở ý thức tuân thủ thực hiện pháp luật, tức là được biểu hiện rõ nhất ở pháp chế.

Về pháp chế

Pháp chế được hiểu là sự thiết lập ý thức, chế độ hoạt động hợp pháp trong việc thông qua, ban hành, kiểm soát các văn bản pháp luật và tổ chức, sử dụng các phương pháp, hình thức tuân thủ thực hiện nghiêm minh pháp luật.

Hiến pháp năm 1959 chưa trực tiếp sử dụng thuật ngữ này, nhưng Điều 6 có thể hiện tinh thần pháp chế. Hiến pháp năm 1980 đã quy định và sử dụng thuật ngữ này tại Điều 12. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục sử dụng và bổ sung, làm rõ hơn nội hàm thuật ngữ pháp chế. Nhưng Hiến pháp năm 2013 không sử dụng trực tiếp thuật ngữ pháp chế mà chỉ quy định tinh thần của nguyên tắc pháp chế, như: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...” (khoản 1 Điều 8). Sự thay đổi này khiến không ít người cho rằng, thuật ngữ “pháp chế” đã lỗi thời, đã được thay thế bởi thuật ngữ “pháp quyền” cũng như Nhà nước pháp quyền.

Sở dĩ trước Đổi mới chỉ sử dụng thuật ngữ “pháp chế” là do đến đầu thập niên 1980, trong hệ thống lý luận về Nhà nước XHCN, quan niệm về Nhà nước pháp quyền còn được xem là thuộc về lý luận tư sản. Nhưng từ Đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã xác nhận giá trị phổ quát của lý luận về Nhà nước pháp quyền; và được thể chế hóa trong Nghị quyết số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung quy định Điều 2 của Hiến pháp 1992 (2001). Hiến pháp năm 2013 tiếp tục chế định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Trong điều kiện đã thừa nhận khái niệm và thể chế hóa quan niệm về Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục đặt vấn đề pháp chế trong mối quan hệ”… giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” trong việc tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn.

Về lý thuyết và thực tiễn, việc tiếp tục hiện diện thuật ngữ pháp chế trong đời sống chính trị - pháp lý thể hiện các mối liên hệ cần phải có giữa các cách thức tác động đặc thù của pháp chế, pháp luật và pháp quyền trong đời sống của Nhà nước pháp quyền XHCN. Pháp chế bảo đảm sự kỷ cương, thống nhất, thường xuyên và dân chủ của tất cả các cơ quan nhà nước, người có chức vụ, công dân và mọi tổ chức của họ trong việc tuân thủ thực hiện pháp luật. Chỉ như vậy mới thượng tôn pháp luật.

Về pháp quyền

Pháp quyền là để chỉ sự thượng tôn pháp luật trong xây dựng, ban hành, triển khai, thực hiện và kiểm soát pháp luật. Nó phản ánh mối quan hệ giữa quyền lực và pháp luật; trong đó quyền lực phải được thể hiện trong pháp luật và ngược lại, pháp luật phải kiểm soát được quyền lực đó. Nguyên tắc pháp quyền của Nhà nước trước hết và cơ bản thể hiện ở việc xây dựng được hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh, giám sát hiệu lực, hiệu quả đối với thực tiễn các quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng và cần thiết của đời sống xã hội; trong đó quan trọng là kiểm soát được bộ máy nhà nước gồm thể chế tổ chức, công chức, viên chức và văn bản pháp quy về vận hành, hoạt động của tổ chức. Muốn vậy, trước tiên và cơ bản phải kiểm soát được lĩnh vực luật pháp với vai trò là thể chế tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước.

Nguyên tắc pháp quyền, phân quyền của Nhà nước pháp quyền XHCN

Thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được dịch từ tiếng Đức “Rechtsstaat”, tức “Nhà nước pháp luật”. Việc chuyển ngữ sang tiếng Việt thành “Nhà nước pháp quyền” là để nhấn mạnh hàm nghĩa thượng tôn pháp luật vốn rất cấp thiết ở nước ta hiện nay. Trên thế giới, thuật ngữ này xuất phát trước tiên từ giới học giả Đức vào đầu thế kỷ XIX, trong khi ở Pháp không có thuật ngữ tương ứng, còn ở Anh quan niệm “rule of law” là để chỉ “vai trò của luật” trong Nhà nước. Các học giả Đức đầu tiên nêu thuật ngữ “Nhà nước pháp luật” hay “Nhà nước pháp quyền” đều thừa nhận kiểu Nhà nước này có 3 nguyên tắc và cũng là 3 thuộc tính cốt lõi, bao gồm là một Nhà nước thế tục, pháp quyền và phân quyền và kiểm soát quyền.

Phù hợp và phát triển những nguyên tắc, thuộc tính đó, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cho đến nay có thể được định vị thông qua 5 đặc điểm có tính phổ quát và tính đặc thù sau: (i) Bản chất của Nhà nước là dân chủ và thực hành dân chủ, tức Nhà nước của, do và vì nhân dân; (ii) Quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp, giám sát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (iii) Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; (iv) Pháp quyền hay thượng tôn pháp luật trong tổ chức, vận hành Nhà nước; (v) Bảo đảm công lý, quyền con người, quyền công dân.

Trong thời gian tới, dựa trên Hiến pháp, để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN phải thực hiện rốt ráo nguyên tắc pháp quyền và phân quyền. Trong đó, trước tiên và cơ bản phải chú trọng thực hiện tốt mối quan hệ giữa phân công, phối hợp và kiểm soát trong lĩnh vực luật pháp, gồm pháp luật, pháp chế và pháp quyền. Nguyên tắc pháp quyền, phân quyền trong Nhà nước pháp quyền tất nhiên phải được thực thi thông qua xây dựng, triển khai, thực hiện pháp luật và pháp chế. Cùng với các văn bản quy phạm pháp luật thì thực hiện pháp luật, pháp chế là yếu tố chủ chốt tạo nên cơ chế tác động của pháp quyền, phân quyền vào đời sống xã hội.

Pháp chế là tuân thủ thực hiện pháp luật để thể chế pháp luật của nguyên tắc pháp quyền, phân quyền được xác lập trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Pháp chế không chỉ ra nội dung, hình thức của pháp luật và văn bản pháp luật phải như thế nào, mà đòi hỏi khi xây dựng, ban hành, triển khai, thực hiện nguyên tắc pháp quyền, phân quyền phải có ý thức tuân thủ pháp luật. C.Mác và Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: Pháp chế là sự tuân thủ luật của những người tham gia các quan hệ xã hội.

Tuy nguyên tắc pháp quyền, phân quyền phải xuất phát, dựa vào và gắn với việc tuân thủ thực hiện pháp luật, pháp chế, nhưng không thể đồng nhất chúng với nhau. Mặc dù pháp luật và pháp chế không thể không chú ý các quan hệ pháp lý và chính trị - xã hội, nhưng pháp quyền, phân quyền phải coi trọng, đặc biệt phải giải quyết trong thực tế các quan hệ này để bảo đảm tính tối thượng, tính tuân thủ pháp luật trong thực tiễn tổ chức, vận hành của bộ máy Nhà nước.

Pháp quyền, phân quyền thể hiện mối quan hệ qua lại giữa quyền lực với pháp luật, pháp chế; trong đó pháp luật, pháp chế phải kiểm soát được quyền lực đó. Đây là bản chất của pháp quyền, phân quyền đương đại; nó khác hẳn với quan niệm pháp trị của pháp gia cổ đại ở Trung Quốc thiên về việc vua (hoặc giới cầm quyền) có quyền ban hành pháp luật để cai trị thần dân. Chỉ như vậy mới “bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.

Đọc thêm

Báo cáo Nhân quyền của Hoa Kỳ nhận định không khách quan về thực tế tại Việt Nam

Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng.
(PLVN) - "Báo cáo Nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 22/4/2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam".

Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và Động viên công nghiệp: Bảo đảm xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, lưỡng dụng

Đại tướng Phan Văn Giang tham quan Nhà máy Z131 (Tổng cục CNQP). (Ảnh: Lam Hạnh)
(PLVN) - Mới đây Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng các đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên đã có buổi tiếp xúc cử tri chuyên đề lấy ý kiến vào dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và Động viên công nghiệp trên địa bàn Thái Nguyên trước Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.

Tạo sự đồng thuận, thống nhất trong tổ chức thực hiện biên chế

Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế đánh giá kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời xác định một số nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2026. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Hôm qua (24/4), tại Trụ sở Văn phòng Trung ương Đảng đã diễn ra Hội nghị Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế (Phiên họp thứ 3). Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế Trương Thị Mai chủ trì Hội nghị.

Cần xây dựng lộ trình kiểm soát giá

Phó Thủ tướng - Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá Lê Minh Khái chỉ đạo tại Hội nghị. (Ảnh: Thanh Hằng)
(PLVN) - Ngày 24/4, khi chủ trì cuộc họp đánh giá kết quả công tác quản lý, điều hành giá quý I/2024, định hướng công tác điều hành giá những tháng còn lại năm 2024, Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo điều hành giá Lê Minh Khái đề nghị các Bộ, ngành cần xây dựng lộ trình tăng giá các mặt hàng dịch vụ một cách hợp lý, nhịp nhàng.

Lễ xuất quân Hành trình 'Điện Biên Phủ - Khát vọng non sông'

Lễ xuất quân Hành trình 'Điện Biên Phủ - Khát vọng non sông'
Sáng 24/4, tại Hà Nội, Trung ương Đoàn tổ chức Lễ xuất quân hành trình "Điện Biên Phủ - Khát vọng non sông" với chuỗi các hoạt động thăm, tặng quà, tri ân các gia đình cựu chiến sĩ Điện Biên, các thương - bệnh binh, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng, dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ.

Báo chí Uruguay và Argentina khẳng định ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ

Báo chí Uruguay và Argentina khẳng định ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ
Trong không khí tưng bừng kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), trang El Popular của Đảng Cộng sản Uruguay và tờ Resumen Latinoamericano của Argentina đã đăng bài phỏng vấn Đại sứ Việt Nam tại Argentina Ngô Minh Nguyệt, trong đó khẳng định chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phát triển mạng lưới đường sắt đô thị: tạo đà cho những bước tiến xa. Kỳ 3: Cần khung khổ pháp lý mới để hiện thực hóa mục tiêu đường sắt đô thị

Dự án tuyến ĐSĐT số 3, đoạn Nhổn - ga Hà Nội vừa hoàn thành tuần thứ tư của giai đoạn vận hành thử nghiệm. (Ảnh: Ban Quản lý đường sắt đô thị Hà Nội)
(PLVN) - Các chuyên gia cho rằng, mục tiêu xây dựng hệ thống đường sắt đô thị tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vào năm 2035 là khả thi nếu có tư duy mới, thực sự đột phá cùng một khung khổ pháp lý mới, “may đo” riêng cho 2 TP tiệm cận với cơ chế phổ biến của các nước đã phát triển thành công hệ thống đường sắt đô thị.

84 giải pháp đoạt giải Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc

84 giải pháp đoạt giải Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc
Tối 23/4, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Quỹ Hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Ðoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức tổng kết và trao giải thưởng Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ 17 (2022-2023).

Quy định cụ thể về ngưỡng doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng phát biểu tại phiên họp.
(PLVN) - Chiều 23/4, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (sửa đổi), các đại biểu đề nghị Chính phủ tính toán, cân nhắc các yếu tố liên quan để quy định cụ thể mức ngưỡng doanh thu hàng năm thuộc diện không chịu thuế GTGT trong Luật để xác lập căn cứ pháp lý rõ ràng.