Xây dựng Đề án Vị trí việc làm (Bài 4): Phải vì việc mà tìm người

Ông Lưu Bình Nhưỡng.
Ông Lưu Bình Nhưỡng.
(PLO) - “Muốn sắp xếp vị trí việc làm hiệu quả phải xác định rõ nhu cầu về lao động, hay nói cách khác chúng ta cần công việc gì để đảm bảo cho được mục tiêu “vì việc mà tìm người” chứ không thể để “người đi tìm việc”.

Đó là ý kiến của ông Lưu Bình Nhưỡng, Ủy viên Thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội khi đặt ra yêu cầu đối với công tác bố trí, sắp xếp vị trí việc làm (VTVL) tại các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập trong giai đoạn hiện nay.

Theo ông Nhưỡng, hiện nay chúng ta đang đi kèm với công tác cán bộ là tinh gọn bộ máy hành chính và vấn đề này đã được Quốc hội giám sát tối cao. Bên cạnh đó, Kiểm toán Nhà nước cũng đi sâu vào nội dung kiểm toán những vấn đề có liên quan đến cán bộ và đã phát hiện có 57.000 vị trí viên chức bị thừa mà vẫn nhận ngân sách nhà nước. 

“Con số 57.000 vị trí này không chỉ là vấn đề tiền lương mà còn là vấn đề trang bị và các chính sách khác, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Như vậy, một năm ngân sách phải bỏ ra hàng nghìn tỉ đồng cho những sơ hở, lỏng lẻo trong công tác cán bộ. Không chỉ vậy, vừa qua bộ máy của chúng ta cứ tách - nhập trong một thời gian dài mà cho đến nay khẳng định là chưa có hiệu quả” - ông Lưu Bình Nhưỡng nói.

Vẫn còn tình trạng “đẽo chân cho vừa giày”

Thưa ông, để thực hiện các Nghị quyết của TƯ về tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách chính sách tiền lương..., giải pháp có tính chất tiền đề là xây dựng Đề án VTVL, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC). Theo ông, việc làm này có ý nghĩa như thế nào trong giai đoạn hiện nay và cần có những giải pháp gì để phát huy hiệu quả Đề án?

- Chính từ bất cập của hệ thống cán bộ hiện nay nên TƯ đã ban hành các Nghị quyết về công tác cán bộ, nhất là Nghị quyết 26 của Hội nghị TƯ 7 (khóa XII). Một trong những nội dung quan trọng tại Nghị quyết này là phải sắp xếp lại các chức danh cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. 

Vấn đề này chúng ta khẳng định là phải sắp xếp theo VTVL chứ không thể “bốc thuốc” đối với công tác cán bộ. Trước đây chúng ta làm theo kiểu áng chừng, một thời gian dài cứ để cho các cơ quan, đơn vị thích thì tuyển, không thích thì thôi, từ đó dẫn đến thực trạng: cùng một quy mô sở, ngành nhưng chỗ này 50 người, chỗ khác lại 40; chỗ này hệ thống tổ chức chức danh có 1 trưởng, 2 phó, nhưng chỗ khác là 3 - 4 phó, thậm chí 5 - 6 phó phòng..., vì thế mới dẫn đến câu chuyện của tỉnh Hải Dương, một sở có tới 44/46 người là lãnh đạo. Bây giờ, một trong những nhiệm vụ chính đã được Chính phủ triển khai là phải làm sao sắp xếp đội ngũ CB đảm bảo chuẩn cả về số lượng lẫn chuyên môn. 

Nhưng, muốn sắp xếp VTVL một cách có hiệu quả phải xác định rõ nhu cầu về lao động, hay nói cách khác chúng ta cần công việc gì? Công việc cần người chứ không thể để “người đi tìm việc”. Phải xác định rõ mỗi một khâu, một loại việc, mỗi một cơ quan, một giai đoạn chúng ta có những công việc gì và cần bao nhiêu người? Những người làm lãnh đạo cũng phải cần bao nhiêu, nhân viên bao nhiêu... tất cả phải xác định rõ. Thậm chí phải xác định rõ việc nào để trong cơ quan làm, việc nào đi thuê ngoài.

Theo Chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng, Bộ Nội vụ đã triển khai vấn đề này, các địa phương cũng đã tiến hành. Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ thì việc xây dựng Đề án VTVL tại các địa phương chất lượng chưa cao. Ông cho rằng nguyên nhân là do đâu?

- Tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, có thể do cách hiểu thiếu thống nhất; thứ hai là nhận thức của cấp ủy chính quyền địa phương các cấp chưa sâu sắc và vẫn còn tư duy nhiệm kỳ; thứ ba, vẫn có tình trạng tìm cách để “đẽo chân cho vừa giày”, rồi thì nể nang “bỏ thì thương, vương thì tội”. Vấn đề nữa là tình trạng “chạy chọt”.

Đang trong đề án đã “chạy” và “chạy” ngay chính sách, người ta muốn làm chính sách là để giữ lại vị trí này, bỏ vị trí kia... Chính vì thế nên đã ảnh hưởng đến công việc của Bộ Nội vụ. Khi Bộ này nhận các đề án cũng rất khó, phê duyệt cũng khó, bởi phê duyệt là hợp thức hóa cho những câu chuyện của địa phương. Tất nhiên không loại trừ có những địa phương, bộ, ngành làm tốt và nghiêm túc, nhưng cũng có nhiều địa phương, bộ, ngành còn lúng túng và làm không tốt. 

Phải có chỉ đạo thống nhất và điều hành thường xuyên

Muốn bố trí đúng vị trí thì phải đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của mỗi CBCC. Nhưng thực tế tại nhiều cơ quan, đơn vị lại có tâm lý muốn tăng thêm hoặc giữ nguyên biên chế nên chưa mô tả và đánh giá đúng thực chất tính chất công việc của từng VTVL. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyết tâm tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy mà Đảng ta đã đề ra. Ông suy nghĩ gì về thực trạng này?

- Quan điểm của người ta khi giữ số lượng CB là vấn đề chi thường xuyên và trang bị. Bởi kinh phí dựa trên đầu người, thậm chí từ trước tới nay chúng ta có câu chuyện thế này: vì tiết kiệm nên mặc dù anh được phân 100 biên chế nhưng chỉ tuyển 50-60 biên chế thôi và vẫn hoàn thành nhiệm vụ, vấn đề là cơ quan, đơn vị của anh vẫn lĩnh tiền của 100 biên chế. Tiết kiệm như thế tôi cho là không đúng mà thực ra là đang tìm cách “tham nhũng tập thể”. Từ tham nhũng về biên chế dẫn đến tham nhũng tiền bạc, nhưng có ai xử lý đâu mà vẫn cứ nói đó là thành tích, là tiết kiệm trong khi việc đó hoàn toàn sai.

Bây giờ phải nhìn nhận lại vấn đề. Vừa qua Bộ Nội vụ có định hướng chuyển Đề án VTVL về cho địa phương tự phê duyệt, tôi cho rằng là hợp lý, vì địa phương phải quyết định trong tổng thể CBCC của mình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, trong đó không chỉ quyết định vấn đề công việc mà còn cả vấn đề ngân sách.

Xây dựng vị trí việc làm để vì việc mà tìm người. Ảnh minh họa
Xây dựng vị trí việc làm để vì việc mà tìm người. Ảnh minh họa

Nhưng muốn làm được thì phải có các quy định hướng dẫn một cách đầy đủ, có chỉ đạo thống nhất và điều hành thường xuyên, nếu không sẽ vẫn dẫn đến tình trạng địa phương này một kiểu, địa phương kia một kiểu. Thậm chí cũng không loại trừ trường hợp tỉnh này “chạy” lên Bộ Nội vụ, tỉnh kia cũng “chạy” xin cái nọ, cái kia. 

Khi xác định được vị trí rõ ràng thì các địa phương sẽ phải làm và cấp ủy, những người lãnh đạo cao nhất ở địa phương đó phải được giao quyền và chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về công tác CB. Chúng ta nên bỏ khái niệm tập thể chung chung. Tâp thể chỉ ra chủ trương, còn quyết định là do người đứng đầu. Vì xét cho cùng khi đã có chủ trương thống nhất thì câu chuyện sắp xếp là câu chuyện của từng con người, nên nó phải rõ người, rõ việc, rõ thời gian và trách nhiệm, nếu không sẽ lại níu kéo nhau. 

Theo Ban Tổ chức TƯ, hiện nay phần lớn các cơ quan, tổ chức chưa ban hành được quy trình thực hiện và chưa xác định được năng suất lao động bình quân của từng công việc. Bởi vậy, giả sử nếu bây giờ xác định biên chế của một tổ chức ít hơn số biên chế hiện có, với cách đánh giá CC như  hiện nay thì sẽ khó chỉ ra được những CC không hoàn thành nhiệm vụ hoặc hạn chế năng lực để buộc họ chấp nhận thôi việc theo quy định. Theo ông, phải khắc phục tình trạng này thế nào?

- Tôi cho rằng bây giờ không có chuyện “Cầm vàng thì sợ vàng rơi/tay cầm biên chế đời đời ấm no”. Đối với một số vị trí về chuyên môn mà không phải chuyên môn bình thường thì chúng ta chuyển sang chế độ ký hợp đồng lao động. Nếu không làm được việc thì sa thải; sắp tới chúng ta nên cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị quyền sa thải và quyền thôi việc rộng rãi hơn. Vấn đề ở đây không phải trao quyền cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị “làm bậy” mà sẽ được cấp trên  kiểm soát.

Điều đó bắt buộc người có trách nhiệm phải tuyển người làm được việc, phải có trách nhiệm với năng suất, chất lượng lao động của CBVC, nếu không chính người đó cũng sẽ bị cấp trên sa thải. Cấp trên cũng sẽ đếm việc và “chấm điểm” của người được giao trách nhiệm phụ trách cơ quan, đơn vị - giả sử với tư cách giám đốc sở thì làm được việc gì. Như vậy ta sẽ “chấm điểm” trong toàn bộ hệ thống, khắc phục được tình trạng “cầm quyết định là yên tâm lĩnh lương”.

Ngoài ra, trong cơ quan, đơn vị nên có hình thức bỏ phiếu ngẫu nhiên mà không cần tổ chức cuộc họp để từ đó phát hiện ra những trường hợp nào không cần thiết ngồi ở đấy. Việc đánh giá này giúp các CBCC luôn luôn có tư tưởng phấn đấu, đồng thời cũng cảnh báo cho anh biết trước là anh đang rơi vào “điểm đỏ”. Vì việc này, CC sẽ “chạy như vịt”, nhưng cũng không thể “chạy” bằng tiền được mà buộc phải “đạp xe”, bởi anh không thể “chạy” được tất cả.

Lý do là người đánh giá cũng luôn nghĩ đến bản thân họ, không bao giờ họ gạch tên mình nhưng người ta cũng không thể tránh việc bị người khác gạch nếu họ làm việc không tốt - khi đó thủ trưởng cũng không đỡ được. Như vậy có thể thấy, nếu chúng ta tổ chức theo kiểu ký kết các hợp đồng và cho người lao động tự đánh giá nhau thì mới có kết quả, còn tình trạng như hiện nay là cuối năm bình bầu thì không ăn thua. 

Nhưng đi kèm với đó là chế độ chính sách phù hợp, anh đòi hỏi người tài thì cũng phải đảm bảo chế độ chính sách tương xứng, nếu chỉ sử dụng một biện pháp thì chưa đủ.

Trân trọng cám ơn ông!

Tin cùng chuyên mục

Đọc thêm

Vai trò then chốt của phụ nữ trong thị trường Halal

Vai trò then chốt của phụ nữ trong thị trường Halal
(PLVN) - Thị trường Halal toàn cầu đang bùng nổ, và phụ nữ không chỉ là người tiêu dùng chủ chốt mà còn là lực lượng sản xuất, kinh doanh, tiếp thị và lãnh đạo quan trọng, thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của thị trường này.

Dồn sức giải phóng mặt bằng dự án cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng

Thi công cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng.
(PLVN) - Dự án đường bộ cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nằm trong danh sách các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành Giao thông vận tải. Xác định rõ tầm quan trọng của dự án, các địa phương có dự án đi qua đang nỗ lực thực hiện công tác giải phóng mặt bằng (GPMB).

Thủ tướng chỉ đạo về điều hành giá điện và xem xét nhập khẩu điện nước ngoài

Ảnh minh hoạ.
(PLVN) -  Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các đơn vị căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền điều hành giá điện theo lộ trình phù hợp, không "giật cục", phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và mức chi trả của người dân. Bên cạnh đó, xem xét khả năng tăng cường nhập khẩu điện từ Trung Quốc để bổ sung điện cho hệ thống nếu cần.

Phó Tổng giám đốc Vietnam Airlines: Bình đẳng giới là một trong những cơ sở cho sự phát triển bền vững của của doanh nghiệp

Ông Lê Đức Cảnh - Phó Tổng giám đốc Vietnam Airlines
(PLVN) - Không chỉ là hãng hàng không quốc gia, Vietnam Airlines còn là đơn vị tiên phong trong thúc đẩy bình đẳng giới với những chuyến bay đặc biệt "Tô cam", "Tô hồng" lan tỏa thông điệp mạnh mẽ đến cộng đồng, chia sẻ về những chương trình hành động mạnh mẽ này, ông Lê Đức Cảnh - Phó Tổng giám đốc Vietnam Airlines – khẳng định đây là một trong những cơ sở cho sự phát triển bền vững của xã hội và của doanh nghiệp.

Cần áp thuế VAT với phân bón để thúc đẩy quá trình nội địa hóa, nông nghiệp bền vững

Ảnh minh họa (https://baochinhphu.vn)
(PLVN) - Nghị trường quốc hội đang bàn về dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm là quy định thuế VAT đối với phân bón. Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải sửa đổi quy định hiện hành, cần áp thuế VAT đối với phân bón để thúc đẩy quá trình nội địa hóa.

Bạc Liêu: Nhân rộng mô hình luân canh tôm - lúa

Từ 2001, Bạc Liêu đã bắt đầu tổ chức sản xuất mô hình tôm - lúa. (Ảnh: Thái Đào)
(PLVN) - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Bạc Liêu vừa phối hợp với Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) tổ chức Hội thảo “Giải pháp nâng cao hiệu quả canh tác nông nghiệp bền vững thích ứng biến đổi khí hậu” với sự tham gia của nhiều chuyên gia nông nghiệp.

Bổ nhiệm 2 Phó Cục trưởng Cục Thủy sản

Bổ nhiệm 2 Phó Cục trưởng Cục Thủy sản
(PLVN) - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) bổ nhiệm ông Vũ Duyên Hải, Trưởng phòng Khai thác thủy sản và ông Phạm Quang Toản, Trưởng phòng Kế hoạch - Tài chính, giữ chức Phó Cục trưởng Cục Thủy sản.

Doanh nghiệp Việt Nam tận dụng FTA, bứt phá tăng doanh thu xuất khẩu

Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Bộ Công Thương) phát biểu.
(PLVN) - Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, Việt Nam đã thực thi 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) và tiếp tục đàm phán các hiệp định mới. Điều này mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp trong nước mở rộng hoạt động xuất khẩu, tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.