Chiến thắng trên sông Bạch Đằng lần 1 năm 938
Đức vương Ngô Quyền sinh ngày ngày 6 tháng 2 năm 898, tại làng Mông Phụ, Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội ngày nay trong một dòng họ hào trưởng có thế lực. Từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người có trí dũng song toàn, được dạy bắn cung nỏ, sử dụng giáo gươm, học binh pháp. Ông được Dương Đình Nghệ là Tiết độ sứ tức lãnh chúa một vùng mời về làm Nha Tướng và gả con gái cho. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị tướng dưới trướng Kiều Công Tiễn giết hại để cướp ngôi. Ngô Quyền bèn tập hợp lực lượng để tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Quá hoảng sợ, Kiều Công Tiễn đã vội vã cầu cứu Nam Hán, Vua Nam Hán nhân cơ hội đó đã phong con trai là Lưu Hoàng Tháo thống lĩnh thủy quân vượt biển sang xâm lược nước ta.
Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, Ngô Quyền sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Tại vùng cửa sông Bạch Đằng, Hơn ba nghìn cây gỗ được vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông trên một quãng dài 3 dặm. Cuối đông năm 938, đoàn binh thuyền do Hoàng Tháo chỉ huy rầm rộ vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Đúng lúc nước triều đang dâng cao, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc lọt vào trận địa mai phục của ta. Khi đoàn thuyền của Hoàng Tháo vượt qua vùng cửa biển, nước triều rút mạnh, quân ta quay lại phản công quyết liệt. Trận địa cọc nhô lên chặn đứng đoàn thuyền giặc, nhiều chiếc bị cọc gỗ đâm thủng, va vào nhau rồi chìm xuống dòng sông. Chủ tướng Hoàng Tháo bỏ mạng cùng quá nửa quân sĩ. Nghe tin Hoàng Tháo tử trận, Vua Nam Hán là Lưu Cung cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó đành thu nhặt số quân còn lại mà rút lui. Từ đó, nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược nước ta. Sau chiến thắng lẫy lừng, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa (tức Đông Anh, Hà Nội ngày nay).
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng lần 2 năm 981
Chiến thắng Bạch Đằng năm 981 gắn với nhà cầm quân tài ba Vua Lê Đại Hành diễn ra trong giai đoạn chiến tranh Tống Việt năm 981.Vua Lê Đại Hành (tên húy là Lê Hoàn) sinh năm 941 tại làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lớn lên, ông theo giúp Đinh Liễn - con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng. Vốn là người trí dũng năm 971, ông được thăng lên chức võ quan cao nhất là Thập đạo tướng quân. Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và thế tử Đinh Liễn bị ám sát, con thứ Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, triều đình nhà Đinh suy yếu. Nhân cơ hội này, nhà Tống ráo riết tập trung binh lực chuẩn bị xâm lược nước ta. Đứng trước vận mệnh nguy nan của đất nước, triều đình đã suy tôn Lê Hoàn làm vua (tức Vua Lê Đại Hành), lập nhà Tiền Lê năm 980. Ông đặt niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Nhà Tống lấy cớ Lê Hoàn tự xưng Đế đem quân thôn tính nước ta. Mùa xuân năm 981, 4 vạn quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thuỷ bộ đánh chiếm nước ta. Lê Đại Hành thân chinh làm tướng cầm quân, cho xây thành Bình Lỗ, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông dựa vào địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng. Chiến sự diễn ra ác liệt cả trên bộ và trên sông trong nhiều tháng trời giữa quân đội hai bên. Đến giữa tháng 4/981, thủy quân Tống do Hầu Nhân Bảo thống lĩnh thất bại trong việc chọc thủng phòng tuyến đối phương đã phải quay về sông Bạch Đằng và rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”.
Trước tình hình này, Lê Đại Hành đã chuẩn bị cho một trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng. Ông chọn một khúc sông hiểm yếu rồi bố trí quân mai phục chờ sẵn. Ngày 28/4/981, Lê Đại Hành đã cho một cánh quân ra khiêu chiến với quân địch trên sông Bạch Đằng, Hầu Nhân Bảo trúng kế đuổi theo và lọt vào trận địa mai phục. Lúc này, các chiến binh Đại Cồ Việt từ khắp các nẻo đổ về sông Bạch Đằng vây đánh quân Tống quyết liệt. Hầu Nhân Bảo bị giết chết. Nghe tin thuỷ quân thua trận, các cánh quân khác vội vã tháo chạy. Quân Tống bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Đại thắng Bạch Đằng năm 981 khiến nhà Tống xuống nước công nhận ông là vua của Đại Cồ Việt.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng lần 3 năm 1288
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228 ở thôn Tức Mặc (phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định ngày nay), thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Ông hết lòng phụng sự cả 4 đời vua Trần thịnh trị. Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người, lại bị mất đoàn thuyền chở lương trong trận Vân Đồn. Trước tình thế bất lợi, quân Nguyên tổ chức rút về nước theo nhiều hướng khác nhau.
Tháng 3/1288, biết được ý đồ rút quân bằng đường thuỷ qua sông Bạch Đằng của quân địch, Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông. Các loại gỗ đã được đẽo nhọn cắm xuống lòng các cửa sông dẫn ra biển làm thành những bãi chông lớn. Tháng 4/1288, khi đoàn thuyền của Ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua bỏ chạy. Trúng kế, thuyền giặc di chuyển vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tiến vào bãi cọc. Quân ta đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Quân Nguyên Mông bị mắc kẹt, tổn thất nặng nề. Chỉ trong vòng một ngày, hơn 600 chiến thuyền và khoảng 6 vạn quân địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân dân nhà Trần đại thắng. Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là đỉnh cao chói lọi của sức mạnh và nghệ thuật quân sự của quân dân Đại Việt thế kỷ thứ 13, thể hiện tài thao lược của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng kiệt xuất, nhà chiến lược lỗi lạc của dân tộc ta.
Ngày nay, trên sông Bạch Đằng lịch sử, ngay tại cửa sông Thải chảy ra sông Bạch Đằng có một vùng đất non nước hữu tình, nơi tọa lạc của Khu di tích Bạch Đằng Giang, một tượng đài lưu niệm, tưởng niệm về ba lần chiến thắng quân xâm lược trên sông Bạch Đằng, đồng thời cũng là công trình thể hiện sự tri ân của hậu thế đối với các tiền nhân và các vị anh hùng dân tộc: Đức vua Ngô Quyền, Hoàng đế Lê Đại Hành, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã có công lao to lớn với đất nước, với Nhân dân.
Khu di tích Bạch Đằng giang, vùng đất địa linh, điểm kết nối giữa quá khứ hào hùng của dân tộc với hiện tại. Khu di tích bãi cọc Bạch Đằng đã được đắp bờ bao bảo vệ xung quanh. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt.
Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ ngày 6 - 9/3 âm lịch với nhiều nghi lễ trang nghiêm và các hoạt động lễ hội phong phú, được tổ chức tại tất cả các điểm trong Khu di tích. Nhằm tôn vinh giá trị ngày đại thắng của dân tộc ta và tưởng nhớ những người đã hy sinh trong các trận chiến Bạch Đằng.
Sức mạnh của chiến tranh nhân dân
Vừa qua, tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Bạch Đằng, thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) Lễ hội Bạch Đằng đã khai mạc, nhân kỷ niệm 1086 năm (938 - 2024); 1043 năm (981 - 2024) và 736 năm (1288 - 2024) Chiến thắng Bạch Đằng. Lễ hội Bạch Đằng diễn ra từ 14/4 đến 17/4 (tức 6/3 đến 9/3 âm lịch). Hiện việc xây dựng Hồ sơ quần thể Yên Tử để đệ trình UNESCO có phạm vi triển khai trên địa bàn 3 tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang được kỳ vọng là Di sản Thế giới liên tỉnh đầu tiên của Việt Nam.
Sông Bạch Đằng đã trở thành dòng sông lịch sử, cọc Bạch Đằng trở thành biểu tượng truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nơi đây dân tộc ta đã ba lần viết lên những trang sử hào hùng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Đặc biệt, Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 có một ý nghĩa lịch sử vĩ đại, thể hiện sức mạnh của toàn dân tộc, là mẫu mực của tinh thần “Cả nước đồng lòng”, của sức mạnh toàn dân, của những hồng đề anh hùng như: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, của những quý tộc anh hùng như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư… và của đông đảo những người lính anh hùng khắc trên cánh tay hai chữ “sát thát”.
Từ thắng lợi vĩ đại của trận Bạch Đằng năm 1288, các thế hệ người Việt Nam luôn tự hào một nước nhỏ nhưng có sức mạnh đánh bại cuộc xâm lược của các nước lớn và mạnh nhất thời bấy giờ. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã rút ra những bài học sâu sắc, tư tưởng quân sự chiến lược để chiến thắng giặc ngoại xâm trong bối cảnh như vậy.
Qua cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã đưa tư tưởng và nghệ thuật quân sự của loại hình chiến tranh nhân dân phát triển đạt đến đỉnh cao, là nền tảng cho việc xây dựng quân đội nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.