Hay - dở trong tính cách người Sài Gòn xưa

Nhịp sống Sài Gòn khoảng thời gian 1968. (Nguồn ảnh: manhhai flickr)
Nhịp sống Sài Gòn khoảng thời gian 1968. (Nguồn ảnh: manhhai flickr)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Đã có rất nhiều lời “có cánh” dành cho cư dân vùng đất Sài Gòn - Gia Định từ xưa đến ngày nay. Tuy nhiên, theo phân tích của các chuyên gia văn hóa, mỗi vùng đất, tính cách, lối sống của người dân sẽ luôn bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó có những điểm tích cực, tốt đẹp, nhưng vẫn tồn tại những mặt trái, điều chưa hay.

Có hay, có dở

Theo TS Lý Tùng Hiếu, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM, sử liệu đầu tiên đề cập tính cách của người Sài Gòn - Gia Định xưa là Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, hoàn thành trong đời Gia Long (1802 - 1820). Trong Quyển IV Phong tục chí, ông viết: “Trấn Phiên An - Sĩ phu trọng danh tiết, tục chuộng xa hoa, nhà cửa, áo quần, đồ dùng, phần nhiều giống với Trung Quốc. Hai huyện Bình Dương, Tân Long, dân ở đông đúc, phố chợ liền nhau, nhà gỗ nhà ngói san sát. Người phần nhiều thông hiểu tiếng nói các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Vân (tục gọi phủ Quỳnh Châu là Hải Nam), các nước Tây Dương, Xiêm La. Tầu (tục gọi thuyền to đi biển là tầu), thuyền biển buôn bán đi về, cột buồm sát nhau, trăm thứ hàng họp lại, khiến chốn ấy là nơi đô hội lớn của đất Gia Định, cả nước không nơi nào bằng. Thói quen buôn bán, nhiều người du đãng ở thành thị, có người ở thuyền gọi là người giang hồ, có người tụ họp ở với nhau gọi là dân tứ chiếng. Chợ Bình An là tổ kẻ cắp. Hai huyện Phúc Lộc, Thuận An, 9 người làm ruộng mới có một người buôn bán, tập tục chuộng chất phác” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành thông chí, bản dịch, 1999, trang 150).

Sử liệu kế tiếp là Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, hoàn tất năm 1882. Mục Phong tục ở tỉnh Gia Định cho biết: “Tục chuộng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài. Học trò đọc sách, phần nhiều chú trọng sáng tỏ nghĩa lí mà vụng về văn chương. Nhà nông thì chăm chỉ lúc khởi công, mà sau khi đã cấy, thì không làm gì cả, được mùa hay mất nhất thiết nhờ trời. Kĩ nghệ thì thô lỗ, đồ dùng thì đều vụng mà chắc, nên hay dùng đồ vật nước ngoài. Những nhà buôn lớn đều từ nước ngoài đến, còn người bản xứ chỉ buôn bán nhỏ, đem chỗ nhiều đến chỗ ít, cất đủ dùng hằng ngày thôi. Đất nhiều sông ngòi, nên người nào cũng giỏi bơi lội. Nhân dân đủ người bốn phương, mỗi nhà mỗi tục. Dân nông thôn thì hầu như chất phác; dân thành thị thì chơi bời...” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, 1992, trang 208 - 209).

Chính vì hình thành trong một không gian văn hoá là đô thị công thương, nên hoàn cảnh và tính cách của cư dân Bến Nghé - Sài Gòn lắm cái tốt mà cũng nhiều cái xấu, nhất là trong con mắt của các tác giả là nhà nho phong kiến. Cái tốt là cư dân thạo nghề buôn bán; và phần nhiều thông hiểu tiếng nói của người Hoa cộng cư, của doanh nhân nước ngoài. Cái xấu là người bản xứ chỉ buôn bán nhỏ, kỹ nghệ lạc hậu, chuộng dùng hàng ngoại; môi sinh thì hỗn tạp với các loại dân giang hồ, dân tứ chiếng; các thành thị đầy rẫy du đãng và kẻ cắp, dân thành thị thì chơi bời chứ không chất phác như dân nông thôn. Ngoài ra, còn có những cái tốt khác, nhưng là của cư dân trấn Phiên An - tỉnh Gia Định nói chung: chuộng khí tiết; trọng nghĩa khinh tài; sĩ phu trọng danh tiết; người đi học chuộng đạo lý chứ không chuộng hư văn.

Còn chính người Sài Gòn - Gia Định xưa thì tự đánh giá ra sao? Đó là một số tính cách được người Sài Gòn - Gia Định xưa đánh giá cao, thể hiện trong tục ngữ, ca dao, các loại tiểu thuyết được dịch thuật và sáng tác ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX: nhân ái (tục ngữ: Lá lành đùm lá rách); bao dung (ca dao: Nước sông trong chảy lộn sông ngoài/Thương người xa xứ lạc loài tới đây); nghĩa hiệp (Luận ngữ: Kiến nghĩa bất vi vô

dõng dã)…

Điều gì làm nên tính cách đặc trưng của cư dân Sài Gòn xưa?

TS Nguyễn Thị Hậu, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP HCM là một trong những người dành rất nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu về lịch sử đô thị, tính cách, lối sống của cư dân Sài Gòn. Trong một khảo cứu, TS Nguyễn Thị Hậu đã phân tích những nguyên nhân tạo nên tính cách của người Sài Gòn xưa kia: “Sài Gòn có một hệ thống sông lớn và có cửa biển Cần Giờ nên đây là một cảng thị từ rất sớm, cũng là nơi có sự giao lưu mạnh mẽ với các quốc gia khác qua đường biển. Từ thế kỷ XVII nhiều cư dân từ nơi khác đến khai phá vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sự hình thành đô thị Sài Gòn là quá trình tụ cư và hội nhập văn hóa nhanh chóng của người Việt, người Hoa với những tộc người bản địa... Từ những con người của Sài Gòn và sống - ở - Sài Gòn, Sài Gòn đã dung nạp, tiếp nhận tất cả các yếu tố văn hóa khác nhau: phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, tiếng nói, ẩm thực, trang phục… Và quan trọng là Sài Gòn không làm thay đổi những nét văn hóa riêng của từng cộng đồng người, vẫn nuôi dưỡng tất cả để tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Sài Gòn.

Quá trình lịch sử và hoàn cảnh xã hội đã tạo nên tính cách “người Sài Gòn” có thể là đại diện cho “người Nam Bộ”: Người Sài Gòn có tính thực tế cao nhưng không bị chuyển thành sự tư lợi mà ngược lại là cơ sở cho tính cộng đồng cao, việc xã hội, “việc nghĩa” được coi là chuyện bình thường. Vì vậy dễ dàng chia sẻ, đùm bọc người tứ xứ nhập cư”.

Trao đổi với phóng viên Báo PLVN, nhà nghiên cứu Lý Tùng Hiếu đồng tình với ý kiến của TS Nguyễn Thị Hậu và phân tích thêm một số nguyên nhân tạo ra tính cách cư dân Sài Gòn. Theo TS Lý Tùng Hiếu, nguyên do đầu tiên là những đặc điểm của quá trình nhập cư. Vào đầu thế kỷ XVII, đã có người Việt theo đường biển đến làm ăn sinh sống ở Bến Nghé - Sài Gòn và Nam Bộ. Trong khi di cư, người Việt đã không mang cả dòng họ đi theo. Các xóm ấp nơi đây bao gồm cư dân đến từ nhiều vùng, nhiều dòng họ khác nhau và gắn bó với nhau chủ yếu do các quan hệ cộng cư, cộng nghiệp, cộng sinh, cộng hôn. Trong quá trình định cư, tập hợp cư dân của mỗi xóm ấp thường xuyên biến động, kẻ đến người đi, khiến cho cư dân Bến Nghé - Sài Gòn và Nam Bộ nhanh chóng quen thuộc với việc kết giao với những người mới đến và không có tập quán phân biệt chính cư với ngụ cư. Cho nên, thay cho câu tục ngữ phổ biến ở Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, cư dân Bến Nghé - Sài Gòn và Nam Bộ chuộng dùng những câu tục ngữ như: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”; “Bà con ngày một xa, sui gia ngày một gần”. Không có gì khó hiểu khi cư dân Bến Nghé - Sài Gòn không có óc kỳ thị địa phương. Và đối với người xa xứ, người gặp nạn thì họ có lòng nhân ái, bao dung, nghĩa hiệp.

Chợ Bến Thành, biểu tượng đời sống thị dân Sài Gòn. (Nguồn ảnh: manhhai flickr)

Chợ Bến Thành, biểu tượng đời sống thị dân Sài Gòn. (Nguồn ảnh: manhhai flickr)

Nguyên do thứ hai là tính chất đô thị trong văn hoá của Bến Nghé - Sài Gòn. Từ thuở khai sinh, Bến Nghé và Sài Gòn đã là những đô thị chuyên về thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Những ngành nghề đặc trưng ấy tạo nên tính chất đô thị trong văn hoá của Bến Nghé - Sài Gòn và giúp cho cư dân nơi đây thành thạo các nghề buôn bán, thủ công nghiệp, dịch vụ. Và, như một cách phản ứng trước lối sống vô đạo đức của bọn lưu manh thành thị, người Bến Nghé - Sài Gòn cũng như cư dân Nam Bộ đều chuộng khí tiết, trọng danh tiết, trọng nghĩa khinh tài.

Nguyên do thứ ba là tính chất đa tộc người trong văn hoá của Bến Nghé - Sài Gòn. Tính chất đa tộc người trong văn hoá khiến cho nhiều hoạt động văn hoá ở Bến Nghé - Sài Gòn (như mưu sinh, ẩm thực, tín ngưỡng, lễ hội…) có sự tiếp biến rõ rệt giữa người Việt với người Hoa và người ngoại quốc. Nó khiến cho người Bến Nghé - Sài Gòn phần nhiều thông hiểu tiếng nói của người Hoa cộng cư, của doanh nhân nước ngoài và làm hình thành các tính cách của cư dân nơi đây như có thái độ cởi mở, có tinh thần hợp tác, có ý thức cộng sinh. Người Bến Nghé - Sài Gòn xưa không kỳ thị ngoại nhân.

Tóm lại, theo TS Lý Tùng Hiếu, những tính cách tốt phổ biến của người Sài Gòn - Gia Định xưa là chuộng khí tiết, trọng danh tiết; trọng nghĩa, khinh tài; đối với người xa xứ, người gặp nạn thì có lòng nhân ái, bao dung, nghĩa hiệp; không kỳ thị địa phương; không kỳ thị ngoại nhân. Một số tính cách xấu dễ thấy là cư dân chuộng dùng hàng ngoại; tầng lớp lưu manh thành thị thì vô đạo đức.

Giờ đây, TP Hồ Chí Minh được coi là một thành phố cởi mở, năng động, hào sảng, nghĩa tình, những nét tính cách tốt đẹp từ thuở người xưa “mang gươm đi mở cõi” còn lại đến hôm nay.

Tin cùng chuyên mục

Sự 'rực rỡ' nguy hiểm

Sự 'rực rỡ' nguy hiểm

(PLVN) - Sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống thường ngày của con người với các thái cực từ đẹp đẽ, cao thượng, bao dung đến xấu xa, lừa đảo, độc ác, “phông bạt”… Tất thảy đều xuất hiện trên thế giới mạng như chúng ta chứng kiến ở đời thực.

Đọc thêm

Sắp 'đối đầu với tiền bối', HLV Kim Sang Sik nói gì?

HLV Kim Sang Sik cho rằng đội tuyển Việt Nam có cơ hội chiến thắng Indonesia (Ảnh: VFF)
(PLVN) - "Chúng tôi cũng có thời gian ở cùng phòng. Tôi luôn xem ông Shin là tiền bối. Tôi rất tôn trọng ông ấy. Tôi mong chờ trận đấu ngày mai, khi cả hai cùng ở cương vị huấn luyện trưởng đội tuyển quốc gia và sẽ đối đầu nhau. Tôi sẽ gạt bỏ hết những suy nghĩ cá nhân để tập trung cho trận đấu”, HLV trưởng ĐT Việt Nam nói.

Xiếc 'Đám cưới chuột' sắp 'trình làng'

“Đám cưới chuột” đậm chất lễ hội dân gian qua ngôn ngữ xiếc (Ảnh: BTC)
(PLVN) - Chương trình xiếc tạp kỹ “Đám cưới chuột” được dàn dựng thông qua ngôn ngữ hành động của xiếc với các thể loại: nhào lộn, tung hứng, thăng bằng, ảo thuật… để kể lại một câu chuyện vừa hài hước, hóm hỉnh, vừa mang ý nghĩa giáo dục một cách hấp dẫn, đậm chất lễ hội dân gian.

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể
(PLVN) - Tập quán văn hóa và tín ngưỡng Lễ Cúng rừng của người Mông và Nghệ thuật trình diễn dân gian Khắp Cọi của người Tày ở Yên Bái được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Đưa hát xẩm đến gần hơn với công chúng

Nghệ sĩ Vũ Thùy Linh lựa chọn dân ca nguyên gốc được phối bởi dàn nhạc giao hưởng cho album mới có tên “Tơ đồng thánh thót”. (Ảnh: L.Thủy)
(PLVN) - Mang nét văn hóa, sử dụng chất liệu âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại là cách mà nhiều nghệ sĩ trẻ đang hướng đến. Đây cũng là một trong những đóng góp của các nghệ sĩ cho đời sống âm nhạc, để nền âm nhạc đậm đà bản sắc Việt vươn ra với thế giới.

Phát triển văn hóa song hành cùng phát triển kinh tế: Nhiệm vụ hàng đầu để đất nước khẳng định vị thế và bản sắc

Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: hcma.vn)
(PLVN) -  Đây là một trong những giải pháp được các nhà khoa học đặt ra tại Hội thảo khoa học “Dự báo nhân tố tác động, yêu cầu đặt ra, phương hướng, giải pháp, kiến nghị tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 13/12.

'Gương mặt vặn vẹo' - đối mặt nhiều vụ án ly kỳ, hóc búa

Phim khai thác đề tài tâm lý tội phạm. (Ảnh: BTC)
(PLVN) - Bộ phim xoay quanh hành trình điều tra và truy bắt tội phạm gian nan của “Đội 7”, đối mặt nhiều vụ án ly kỳ, hóc búa. Hình ảnh nhân vật phản diện được xây dựng từ những ám ảnh thời thơ ấu, tổn thương tâm lý cho đến những biến cố không thể lường trước trong cuộc sống. Chính những điều này đã biến họ từ con người bình thường thành những kẻ tội phạm đáng sợ, nhưng cũng khiến người xem ít nhiều hiểu và đồng cảm.

“Vằng vặc trăng quê” - đong đầy hồn quê

"Vằng vặc trăng quê" lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mang đậm “hồn quê” Bắc Bộ (ảnh P.V).
(PLVN) -  Tản văn “Vằng vặc trăng quê” của nhà báo Ngô Bá Lục không chỉ kể chuyện đời thường, đong đầy tình yêu thương mà còn lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mang đậm “hồn quê” Bắc Bộ.

“Xây Tết” cho gần 2 vạn công nhân

Chương trình "Xây Tết" dành cho gần 2 vạn công nhân (Thùy Dương)
(PLVN) -  Lễ ra mắt chương trình “Xây Tết 2025” với những hỗ trợ thiết thực về vật chất, tinh thần đến hơn 18.500 công nhân trên cả nước diễn ra vào ngày 12/12/2024 tại Báo Nhân Dân.

Sắc màu thổ cẩm của người H’rê ở Quảng Ngãi

 Cụ bà người H’rê ở làng Teng dệt thổ cẩm.
(PLVN) - Giá trị văn hóa truyền thống nghề dệt thổ cẩm của người H’rê ở làng Teng (xã Ba Thành, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) thể hiện trên từng sản phẩm gắn liền với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo của người thợ dệt được lưu truyền từ lâu đời, bảo tồn và phát triển cho đến ngày nay.

"Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự"

"Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự"
(PLVN) - Với mục đích giúp bạn đọc hiểu thêm về thực trạng pháp luật đối với hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cung cấp tài liệu tham khảo cho các luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên, những người làm công tác nghiên cứu, công tác thực tiễn, Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản cuốn “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của TS Ngô Thị Ngọc Vân.