Bình phong của kinh đô xưa
Chạy xe dọc quốc lộ 1A đoạn qua phường Nhơn Thành sẽ thấy núi Mò O hiện ra giữa cánh đồng. Núi nằm cách biệt hoàn toàn với một quần thể núi, mang vẻ trang nghiêm nhưng không hề xa lạ với mọi người.
Truyền thuyết kể lại rằng, núi Mò O nửa đất sỏi, nửa đá dăm, đứng sừng sững giữa cánh đồng rộng. Hình thù cổ quái. Trên đỉnh có một lỗ thủng, ngoài tròn trong vuông, rộng chừng hai thước, sâu trên một thước, người ta bảo đó là giếng Tiên. Dưới đáy toàn cát trắng. Trên miệng giếng có hai tảng đá hình tam giác lớn, đứng song song che miệng giếng ở mặt Đông và mặt Tây.
Trong sách “Nước non Bình Định”, nhà thơ Quách Tấn viết: “Hòn Mò O không cao, chỉ 345 thước, nằm giữa quận An Nhơn và Phù Cát. Có nhiều thầy địa lý bảo rằng, hòn Mò O tiếp nhận đến hai sơn mạch. Một từ Kỳ Đồng xuống.
Một từ Chà Rang chạy xuống thì nhập mạch với Kỳ Đồng vào Mò O thành Lưỡng Long nhập thử, nghĩa là hai con rồng vào một cái đầu. Và Mò O là Đình Tức Long, tức là con rồng dừng lại để thở, rồi chạy xuống bảy hòn núi đất ở Chánh Mẫn cách chừng 3 cây số mới dừng lại”.
Đại đức Thích Viên Kiên (chùa Thập Tháp, ở thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn), cho biết: “Núi Mò O cũng được nhắc đến ở hai câu liễn trước cổng chùa Thập Tháp của hòa thượng Trí Hải (1876 - 1950) là người tinh thông nho học, Phật học và thành thạo văn chương, thư pháp:
“Nguyệt hạ bất xao kim tỏa đoạn/ Sơn tiền chỉ nhậm bạch vân phong”, tạm dịch “Trước núi chỉ cho mây trắng nhóm/ Dưới trăng không gõ khóa vàng rơi”. Đứng ở chùa ngó xuống thì thấy núi Mò O giống như lá buồm, chùa lấy núi làm tiền án. Và đối với địa cuộc của chùa, núi Mò O chịu triều phục nên dáng trông hiền lành, lễ độ”.
Cũng theo đại đức Thích Viên Kiên, nếu đứng ngoài huyện Phù Cát ngó vào thì núi ngạo nghễ, hung tợn, lưng lởm chởm đá dăm như lưng nhím, miệng mồm há hốc như con gấu toan vồ mồi. Nếu đứng hướng Đông nhìn lên thì là một ông Phật ngồi, hai đùi giãn, hai chân thòng, bụng phơi ra. Còn đứng ở phường Đập Đá (thị xã An Nhơn) trông ra thì núi không hiền cũng không dữ, có thể ví như một con mãnh hổ nằm ngó mông.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, những mỏm núi đá mà núi Mò O giương ra hứng gió bấc của hàng ngàn năm để biến thành kim cương. Câu chuyện đẫm vị căn cốt chân tu này được lồng vào một chuyện kể rất trần thế đời người. Người ta cho rằng Mò O là cuối cùng của long mạch, tiềm ẩn và phát tích đế vương.
Núi sống cạnh con người và núi đã tạo cho con người ta khí thiêng. Ngược lại, con người góp phần tạo nên huyền tích cho núi. Mò O sống với quần thể núi non trùng điệp. Đó chính là gò Long Cốt án ngữ mặt phía Bắc của thành Đồ Bàn ngày xưa. Ngọn núi chính là bình phong cho kinh đô Vijaya của vương quốc Chiêm Thành. Sau này là bình phong thành Hoàng Đế của Thái Đức Nguyễn Nhạc.
Ông Nguyễn Văn Dũng, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du Lịch Bình Định, cho biết: “Theo cách thức xây dựng kinh đô dựa vào triết lý phương Đông và điều kiện bản địa, bức bình phong Mò O hết sức hữu lý, hữu tình.
Mò O thực sự là một trong những nhân chứng sống biểu trưng cho thế đại địa của An Nhơn. Nó không chỉ dừng lại ở vai trò trong cuộc đất hai lần kinh đô, mà cao hơn hết là sự trường tồn trong đời sống và sự ngưỡng mộ của nhân dân, về sự chở che, về uy linh sơn mạch”.
Cũng theo ông Dũng, chẳng phải tới bây giờ núi Mò O mới được phát giác bởi những điều kỳ bí về nó, mà đã từ ngàn đời trước, khi Bình Định nói chung và An Nhơn nói riêng giang tay chào đón những vận hội kinh kỳ thì núi thiêng Mò O thực sự trở thành nơi che chở rất đỗi kỳ vỹ, nó trở thành vùng đất linh thiêng trong tâm thức hoàng triều và thần dân.
Và hơn hai thế kỷ trước, lại một lần nữa núi thiêng Mò O đã làm một thiên chức cao quý của xứ sở đế vương, nơi định đô của một triều đại nông dân rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đó chính là triều đại Tây Sơn với bao trang sử bi hùng.
Ở núi Mò O nhìn về bốn phương Nam Bắc Tây Đông, ta sẽ bắt gặp mô hình Thánh địa - Kinh đô - Cảng thị, tương ứng với thành Cha, thành Đồ Bàn (sau này là thành Hoàng Đế) và thành Thị Nại (sau này trở thành quân cảng nhà Tây Sơn).
Những biến thiên trong dòng thời gian đã để lại trên gương mặt đất đai sông núi một chiều sâu trầm lắng. Câu ca dao địa phương còn mãi trong tâm thức: “An Nhơn có núi Mò O/ Có chùa Thập Tháp, có đò Trường Thi”.
Cụ Nguyễn Thị Liên kể về chuyện vàng và đồng đen đi ăn đêm |
Những câu chuyện kỳ bí
Tương truyền rằng, vào thời vua Lê Cảnh Hưng, khoảng cuối thế kỷ XVII, có một thầy địa lý người Tàu thường hay qua lại trong vùng Tây Sơn để tìm mạch đất. Nguyễn Nhạc lấy làm lạ và quyết tâm theo dõi ông thầy nọ. Và ông đã nhìn thấy nên hoán đổi vị trí hai cây trúc, nhổ cây phía Bắc héo khô sang chỗ cây phía Nam tươi tốt và ngược lại, là huyệt khố mà thầy Tàu đã thử.
Thầy địa Tàu kia thấy hai cây trúc đều bị héo khô, không hay biết rằng do có bàn tay của Nguyễn Nhạc, cứ tưởng là không tìm ra huyệt địa nên bỏ đi. Sau đó, Nguyễn Nhạc đem mộ ông thân sinh tán vào đó.
Cũng có truyền thuyết nói rằng, ông thầy Tàu tìm ra huyệt, về đem xương cốt tiền nhân qua chôn. Nguyễn Nhạc đã dùng mưu kế và đánh tráo chiếc tráp cốt. Thầy địa mang chiếc tráp cốt tiền nhân Nguyễn Nhạc đem chôn mà cứ tưởng cốt tiền nhân của mình. Sau khi nhà Tây Sơn phát tích đế vương, thầy địa Tàu mới biết mình lầm và tìm cách trả thù.
Thầy địa Tàu cùng hai con đến thẳng Quy Nhơn ra mắt vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, tìm cách mê hoặc vua cho đào hai nhánh sông tả hữu trước mặt Hoành Sơn nên long mạch bị phạm. Kế đó, thầy Tàu còn bày cho vua làm phạm thêm long mạch ở phía chân núi Mò O.
Dân gian truyền rằng, ngọn núi Mò O này rất linh thiêng. Người dân xung quanh ngọn núi này chứng kiến những cuộc vàng và đồng đen hay rủ nhau đi ăn đêm. Cả vàng và đồng đen đều rất nhiều tuổi. Chúng đội lốt con trâu, nải chuối hay buồng cau. Nói chung là những loài vật và các loại trái cây quen thuộc mà người xưa đã đúc.
Cụ Nguyễn Thị Liên (80 tuổi, ở dưới chân núi Mò O) cho biết: “Nhiều lúc trong đêm khuya, có người đã bắt gặp vàng và đồng đen di chuyển qua các lùm cây, bờ rào nằm xung quanh núi Mò O. Có người còn bảo rằng chỉ có những ai hợp tuổi với vàng và đồng đen, dùng cái khăn quệt với máu chó thì mới bắt được chúng. Những năm mất mùa, đói kém thì y rằng năm đó trâu vàng hoặc trâu đồng đen thường hay đi ăn nhiều”.
Nói về những huyền tích của núi Mò O này, ông Dũng bảo: “Trong khoảnh khắc lắng đọng khi đứng ở núi Mò O, tôi cơ hồ nghe văng vẳng cuộc đối thoại giữa núi sông, thành quách, đền tháp với dòng thời gian dâu bể.
Dọc những xóm làng, thị tứ, đồng mía, rừng xoài, những cỗ xe ngựa gập ghềnh từ rạng đông cho tới hoàng hôn gây cho tâm trí chút cảm giác bồng bềnh cùng quá vãng. Một quá vãng được hợp thành giữa các mặt đối lập: vĩnh hằng và phù vân, thánh thần và yêu qủy, ngai vàng và bùn đất, thống lĩnh và nô bộc, sinh thành và hủy diệt”.
Và cho đến tận ngày nay, ngọn núi Mò O kỳ lạ ấy vẫn còn tồn tại, thách thức với thời gian. Nó đứng đó sừng sững trong sắc trời kinh xưa, vừa uy nghi ngạo nghễ, vừa trầm mặc, hiền hòa.