Chương trình - sách giáo khoa mới và những lúng túng

Sách giáo khoa mới với những lựa chọn “rối bời”.
Sách giáo khoa mới với những lựa chọn “rối bời”.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Cuối tháng 9 vừa qua, tại Hà Nội, lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức trưng bày, giới thiệu về sách giáo khoa Việt Nam qua các thời kỳ, theo các mốc thay sách: 1956, 1976, 2002, 2020. Sau bốn lần thay sách, câu chuyện về sách giáo khoa vẫn luôn “nóng”…

Gặp phản ứng gay gắt ngay từ năm đầu

Lần thay sách thứ tư, theo Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) ban hành năm 2018, thực hiện theo Nghị quyết 88 của Quốc hội với chủ trương một chương trình nhiều bộ SGK, bỏ độc quyền xuất bản SGK. Không chỉ Nhà xuất bản Giáo dục, đã có 6/7 nhà xuất bản được phép xuất bản SGK tham gia vào lĩnh vực này. Cho rằng để tiệm cận với các nước phát triển, khổ SGK được điều chỉnh từ khổ 17 x 24 cm lên khổ lớn hơn là 19 x 26,5 cm. Không chỉ SGK tiểu học mà hầu hết SGK các lớp đều được in màu.

Theo đó, Chương trình GDPT mới được triển khai tuần tự từ lớp 1 đến lớp 12. Đó là năm học 2020-2021 triển khai ở lớp 1; năm học 2021-2022 triển khai ở lớp 2, lớp 6; năm học 2022-2023 triển khai ở lớp 3, lớp 7, lớp 10. Năm học 2023-2024 triển khai ở lớp 4, lớp 8, lớp 11; năm học 2024-2025 triển khai ở lớp 5, lớp 9, lớp 12.

Trong chương trình GDPT mới, SGK chỉ là tài liệu tham chiếu trong quá trình dạy học, giáo viên không phải dạy theo từng chữ từng câu mà vận dụng linh hoạt theo tinh thần dạy học phân hóa.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) mới đây đã chỉ ra một loạt những hạn chế trong bản mẫu SGK mới, trong đó ngữ liệu, hình ảnh được sử dụng trong một số SGK còn chưa được chọn lọc, tinh giản, một số hình ảnh chưa được gia công tập trung và nội dung chính cần biểu đạt, còn hạn chế trong bố cục; khai thác ngữ liệu, văn bản, hình ảnh ở các hoạt động còn chưa sâu sắc, hiệu quả. Yêu cầu về việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn chưa được thể hiện rõ ràng…

Ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD-ĐT), cũng chỉ ra rằng, không chỉ bản mẫu, SGK ban hành rồi đâu đó vẫn có “sạn”, một phần do hạn chế trong việc hình ảnh, ngữ liệu đưa vào SGK đang quá chú trọng đáp ứng đến yêu cầu cần đạt của chương trình trong khi những khía cạnh khác của xã hội thì chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo.

Ông Nguyễn Hữu Độ, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT nhấn mạnh, dù thay đổi thế nào, SGK vẫn phải là “khuôn vàng thước ngọc”. Quy định tưởng như chặt chẽ nhưng SGK vừa đưa vào sử dụng đã gây bức xúc trong dư luận. Đặc biệt là sách tiếng Việt ngay năm đầu đưa vào sử dụng đã gây phản ứng gay gắt trong dư luận về việc sử dụng từ ngữ, ngữ liệu của một số cuốn sách, trong đó nổi lên là cuốn tiếng Việt 1 của bộ sách Cánh Diều. Nhiều bài đọc dựa trên các cốt truyện có nội dung liên quan đến các yếu tố bạo lực, thói xấu, hoặc xa lạ với trẻ, không có tính giáo dục, khiến Bộ GD-ĐT phải yêu cầu nhà xuất bản có SGK này tiếp thu, chỉnh sửa. Rất nhiều từ ngữ, ngữ liệu trong cuốn SGK này vừa mới đưa vào cũng đã phải thay thế, điều chỉnh.

Khó cho cả thầy, trò, phụ huynh

Tại nghị trường mới đây, ĐBQH Thái Quỳnh Mai Dung (Vĩnh Phúc) cho biết: Năm học 2021 - 2022, ngành giáo dục tiếp tục triển khai chương trình mới ở lớp 2 và lớp 6 nhưng Nhà xuất bản Giáo dục (NXBGD) Việt Nam chỉ phát hành 2 bộ SGK (Chân trời sáng tạo và Kết nối tri thức với cuộc sống); còn 2 bộ sách giáo khoa (Cùng học để phát triển năng lực và Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dục) “biến mất” sau một năm phát hành.

Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung cho rằng, việc 2 bộ sách giáo khoa bỗng dưng “biến mất” được NXBGD Việt Nam giải thích là để hợp nhất 4 bộ sách thành hai bộ sách tốt hơn; tập trung nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác biên soạn SGK, phát triển SGK giấy đồng bộ với sách và học liệu điện tử cũng như nâng cao chất lượng công tác tập huấn sử dụng sách giáo khoa mới. Tuy nhiên, việc 2 bộ sách bỗng dưng “biến mất” là do thị phần thấp, do quy luật kinh tế thị trường.

Theo đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung, việc 2 bộ SGK biến mất đặt ra những vấn đề sau: các địa phương đã chọn 2 bộ sách “Cùng học để phát triển năng lực”, “Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dục” để đưa vào chương trình giảng dạy có tiếp tục sử dụng hai bộ sách này trong năm học tiếp theo không? Khối 1 cả nước có khoảng hơn 2 triệu học sinh, như vậy sẽ lãng phí khoảng 440.000 bộ sách lớp 1, tương đương 88 tỷ đồng trở thành phế liệu, không tái sử dụng được. Bên cạnh đó, mỗi bộ sách có triết lý khác nhau, như vậy năm học sau sẽ có 440.000 học sinh phải “nhập môn” triết lý mới?

Ở góc độ khác, chương trình GDPT mới có nhiều môn học mới, nhiều hình thức giảng dạy khác nhau như dạy tổ hợp môn. Các giáo viên phải vật lộn để đáp ứng yêu cầu này, phần lớn giáo viên các môn học này chưa được bồi dưỡng. Từ đó, dẫn đến tình trạng một môn học có đến 2-3 giáo viên cùng giảng dạy nhưng kiểm tra định kỳ, điểm số, nhận xét cho học sinh thì các giáo viên lại thực hiện chung.

Còn nhiều giáo viên thì cho rằng, việc SGK thay đổi liên tục không chỉ lãng phí mà còn làm khó cho cả thầy cô, học trò và phụ huynh. Giáo viên năm nào cũng phải đi tập huấn nâng cao. Học trò thì chạy hụt hơi với cái được cho là hiện đại. Còn phụ huynh thì không biết làm sao mà phụ giúp con học. Bởi năm ngoái mới tìm hiểu dạy cho đứa lớn, đến đứa nhỏ thì chương trình, nội dung lại khác rồi. Điều này ngay cả với những người có học vấn cao cũng lúng túng.

Chương trình GDPT mới và Luật Giáo dục 2019, Bộ GD-ĐT triển khai “một chương trình, nhiều bộ SGK” là hướng đi đúng, để đa dạng hóa cách tiếp cận, mời gọi nhiều nhà khoa học, nhà giáo cùng viết sách, khuyến khích giáo viên chủ động tìm tòi, sáng tạo trong dạy học.

Nhưng vấn đề không phải là “nhiều bộ SGK” mà là cách chọn sách, dùng SGK. Các địa phương dựa vào danh mục SGK (5 bộ) mà Bộ GD-ĐT đã phê duyệt, căn cứ vào tình hình địa phương để “tự chọn”. Có khi các SGK được chọn không bắt buộc thuộc cùng một bộ. SGK được dịp “nhảy múa”, mỗi trường lại căn cứ vào địa bàn mà chọn cho mình những sách khác nhau. Lại có địa phương năm nay dùng loại SGK này, sang năm dùng loại SGK khác. Như vậy, SGK chỉ dùng một năm, không tái sử dụng được. Còn chưa nói tới lãng phí ở các loại sách tham khảo, sách bài tập mà phụ huynh được gợi ý “nên mua”! Và nay SGK mỗi trường mỗi khác, chưa nói tới chuyện “dạy” cho nhau, ngay việc học khác trường là khó “dạy” nhau. Rồi chuyển trường, tất yếu phải thay sách...

Các chuyên gia giáo dục nhận định, việc cải cách giáo dục ở mỗi giai đoạn đều gắn liền với đổi mới và những đòi hỏi từ lịch sử phát triển đất nước đặt ra. Cải cách là thay đổi cả về mục tiêu giáo dục, nguyên lý giáo dục và hệ thống giáo dục. Còn đổi mới SGK là bám sát và cụ thể hoá chương trình giáo dục theo từng giai đoạn.

Mục tiêu của lần đổi mới này nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả GDPT; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, thực tế, dù đã bước sang năm thứ ba thay SGK, nhưng thầy trò vẫn rối bời “vừa chạy, vừa xếp hàng”...

Tranh luận về một hay nhiều bộ sách - trở lại điểm xuất phát?

Hiện nay, một hệ thống mở cho phép sự tham gia của nhiều bên liên quan, cũng đồng nghĩa với sự đóng góp tài lực và trí lực tập thể, là một hệ thống phức tạp hơn nhiều. Đây chính là hàm nghĩa của khái niệm “xã hội hóa” trong giáo dục. Với một hệ thống như vậy, Nhà nước quản lý chặt chẽ CTGD và giám sát việc triển khai chương trình, còn SGK chỉ là một yếu tố đầu vào để triển khai quá trình giáo dục. Hệ thống này cho phép nhiều nguồn SGK để đa dạng hóa tiếp cận văn hóa, tri thức, phương pháp… Việc đầu tư phát triển SGK cũng không chịu bất cứ sự hạn chế nào nhưng sản phẩm phải trải qua quá trình đánh giá, tuyển lọc khắt khe để có thể bước vào nhà trường. Hệ thống mở có nhiều ưu điểm, nhưng cần điều kiện để thực thi.

Một điều đáng chú ý nữa, khi triển khai CTGD phổ thông 2018 với chủ trương nhiều bộ SGK đã có nhiều vướng mắc nhưng ngay lập tức, các thảo luận về SGK và Chương trình ở nhiều cấp lại quay trở về “một bộ sách”. Tranh luận về một bộ sách hay nhiều bộ sách lại trở về điểm xuất phát bởi nó dường như không có điểm neo về định hướng triết lý hệ thống. Vấn đề không phải nằm ở số ít hay số nhiều; vấn đề nằm ở định hướng chiến lược mở hay không mở và chiến lược này còn quyết định hàng trăm yếu tố khác nhau, không phải chỉ SGK và Chương trình.

Đối với CTGD phổ thông 2018, mặc dù thời điểm triển khai Chương trình được lùi lại so với dự kiến hai năm, SGK cũng chỉ có mặt trên thị trường trước khi năm học 2020-2021 bắt đầu khoảng ba tháng. Khoảng thời gian này là quá ngắn, không cho phép việc tập hợp, phân tích cặn kẽ, đầy đủ để có thể đưa ra đánh giá. Chưa kể các bộ sách không có đủ như dự kiến (chỉ có 3 bộ thay vì 5 bộ như kế hoạch điều chỉnh), và mỗi bộ sách được ban hành “cuốn chiếu” nên cũng không đủ cả bộ các năm để có thể đánh giá toàn diện tính hệ thống, tính nhất quán của bộ sách.

Việc không có nhiều tài liệu (các bộ sách) để lựa chọn, sách không có đủ bộ và chỉ được phân phối đến các trường trong thời gian quá ngắn đã khiến cho việc thẩm định, lựa chọn chỉ mang tính hình thức. Trong bối cảnh gấp gáp, vội vã và lúng túng đó, việc kiểm soát tác động của hoạt động quảng cáo, marketing, cho các bộ sách để đảm bảo đánh giá khách quan, chính xác là khó thực hiện”.

TS Đỗ Thị Ngọc Quyên - Nhà nghiên cứu giáo dục độc lập

Đọc thêm

Từ tác phẩm có câu từ phản cảm phát cho học sinh ở TP HCM: Cẩn trọng khi lựa chọn ngữ liệu học tập

Ngữ liệu học tập cần được lựa chọn phù hợp với lứa tuổi của học sinh. (Ảnh minh họa. Nguồn: PV)
(PLVN) - Một trường quốc tế ở TP HCM trước kỳ lễ dài ngày vừa qua đã phát cho học sinh lớp 11 một tác phẩm văn học nước ngoài (được dịch sang tiếng Việt) tương đối nổi tiếng. Tuy nhiên, trong ngữ liệu học tập này có chứa những câu từ được nhiều người cho là phản cảm, khiến nhiều phụ huynh lo lắng, bất bình. Nhà trường đã phải nhanh chóng thu hồi các ấn bản trên và xem xét lại quy trình tác phẩm được giới thiệu cho học sinh.

Câu hỏi bỏ ngỏ trước ngưỡng cửa đại học

Ảnh minh họa
(PLVN) - Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2024 đối với 137 trường đại học và học viện tại các tỉnh phía Bắc tính từ Thanh Hóa trở ra (không bao gồm các trường quốc tế) có 35 trường đại học đang đào tạo đa ngành, tương đương với 25,5% trong tổng số. Trong đó gồm 15 trường có trụ sở tại Hà Nội (chiếm 43%) và 20 trường phân bố tại 16 tỉnh, thành phố khác (tỉnh Bắc Ninh có nhiều nhất với 3 trường).

377 thí sinh đạt thành tích xuất sắc tại Olympic Tiếng Anh dành cho cấp tiểu học và THCS

Olympics Tiếng Anh toàn thành phố năm nay chào đón 1288 thí sinh THCS đến từ 401 trường, và 1295 thí sinh tiểu học đến từ 490 trường tại Hà Nội (ảnh P.V)
(PLVN) -  Lễ tổng kết và trao giải Olympic Tiếng Anh dành cho cấp tiểu học và THCS đã diễn ra tại Trung tâm Nghệ thuật Âu Cơ (Hà Nội). Trải qua hai vòng thi ở mỗi cấp, Ban tổ chức cuộc thi Olympics Tiếng Anh thành phố Hà Nội đã lựa chọn ra 377 thí sinh đạt thành tích xuất sắc để trao các giải đặc biệt, nhất, nhì, ba và khuyến khích.

Bắt đầu đăng ký thi tốt nghiệp THPT, thí sinh cần lưu ý điều này

Ảnh minh họa.
(PLVN) - Sau khi đăng ký thành công, từ ngày 11/5 đến 17/5, tất cả thí sinh phải sử dụng tài khoản và mật khẩu được cấp đăng nhập vào Hệ thống quản lý thi qua địa chỉ http://thisinh.thitotnghiepthpt.edu.vn để kiểm tra thông tin đăng ký dự thi, phản hồi các sai sót và đề xuất duyệt minh chứng đối tượng ưu tiên (nếu có) với đơn vị đăng ký dự thi...

Làm gì để 'gỡ' áp lực các kỳ thi đầu cấp?

Các kỳ thi vào lớp 1, lớp 6 đang ngày càng trở nên áp lực với học sinh. (Ảnh minh họa)
(PLVN) - Ôn thi từ khi bập bẹ biết nói là câu chuyện phổ biến ở các trường tiểu học, THCS. Thay vì được học đúng độ tuổi, khả năng, hiện nay, nhiều gia đình đã hướng con cái đến các tiêu chuẩn học tập “ngoại cỡ”.

'Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh' trong thế giới đa cực

Ngày hội Tư vấn tuyển sinh - Hướng nghiệp tại Hà Nội. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Theo báo cáo nghiên cứu vào năm 2019 của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP Hồ Chí Minh (FALMI), khoảng 75% học sinh THPT thiếu hiểu biết cần thiết về các ngành nghề mà mình lựa chọn, theo đuổi sau khi tốt nghiệp. Vấn đề này dẫn đến có khoảng 60% học sinh nhận thấy bản thân mình đã có lựa chọn sai lầm trong định hướng nghề nghiệp.