Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

PGS.TS Lê Hải Bình: "Mỗi bước tiến của nhân loại đều đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và hiện thực hóa các quyền con người"

(PLVN) - Theo  PGS.TS Lê Hải Bình, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, “Quyền con người” là khát vọng của con người, là giá trị phổ quát của nhân loại, là sự kết tinh những giá trị cao đẹp của văn hóa nhân loại, là biểu hiện trình độ của tiến bộ xã hội, vì vậy tất cả các quốc gia, dân tộc, dù có sự khác nhau về chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao đẹp này. Báo Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của PGS.TS Lê Hải Bình về vấn đề này. 
PGS.TS Lê Hải Bình, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

PGS.TS Lê Hải Bình, Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

CÔNG NHẬN, TÔN TRỌNG, BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI,

LẤY CON NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

“Quyền con người” là khát vọng của con người, là giá trị phổ quát của nhân loại, là sự kết tinh những giá trị cao đẹp của văn hóa nhân loại, là biểu hiện trình độ của tiến bộ xã hội, vì vậy tất cả các quốc gia, dân tộc, dù có sự khác nhau về chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao đẹp này. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, mỗi bước tiến của nhân loại đều đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và hiện thực hóa các quyền con người.

Về vai trò trung tâm, chỉ thể của con người và quyền con người

Cùng với sự phát triển của xã hội, các khái niệm về quyền con người dần được hình thành và pháp điển hóa trong luật quốc gia của hầu hết các nước trên thế giới cũng như trong luật pháp quốc tế, đặc biệt qua Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 và các Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền con người.

Có thể nhận thấy quyền con người là một phạm trù đa diện và có nhiều định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa có những cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề từ những góc độ nhất định. Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (24/10/1945), quyền con người đã được quy định trong rất nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu được các quốc gia tôn trọng và thực hiện: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động và sự lãng quên làm tổn hại đến các quyền tự do cơ bản và phẩm giá con người”.

Quyền con người “là khả năng tự nhiên và khách quan của con người, với tư cách là con người và với tư cách là thành viên của xã hội, con người được bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị cao quý của con người trong các quan hệ vật chất, văn hóa và tinh thần, các nhu cầu về tự do và phát triển”. Quyền con người “là những sự được phép mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” v.v..

Ở Việt Nam, xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã đấu tranh kiên cường, bất khuất, bền bỉ và sẵn sàng hi sinh xương máu để giành và giữ vững những quyền tự do cơ bản của con người, nhất là quyền độc lập và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, quyền được sống trong hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người dân.

Sinh thời, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước, đồng thời, kế thừa tinh hoa tư tưởng quyền con người trên thế giới, đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, rằng quyền con người của mỗi cá nhân luôn gắn với độc lập dân tộc, với quyền dân tộc tự quyết, với tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; đồng thời, đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, hệ thống pháp luật và của đội ngũ cán bộ, công chức trong tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, đặc biệt là các nhóm yếu thế; thể hiện tính nhân đạo, khoan dung, bình đẳng, đoàn kết, hòa hiếu với các dân tộc, quốc gia trên thế giới, v.v..

Kế thừa, đúc rút từ truyền thống văn hóa dân tộc và các giá trị của nhân loại, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, những nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người, không chỉ công nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người mà còn làm hết sức mình để đảm bảo và thực hiện quyền con người trên thực tế. Đảng ta xác định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”; “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi”.

Từ chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các quy định của Hiến pháp năm 2013, nội dung của công nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, con người là trung tâm trong chiến lược phát triển có thể hiểu như sau:

1) Công nhận: Các chủ thể trong xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước. Công nhận nghĩa là phải thừa nhận đồng thời phải ghi nhận ngày càng đầy đủ, cơ bản bằng các thể chế quan phương là pháp luật và các thể chế phi quan phương khác mà đặc biệt là đạo đức (đối với các tổ chức xã hội). Đó là sự thừa nhận, ghi nhận đối với các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của con người.

2) Tôn trọng: Các chủ thể trong xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền, trước hết và chủ yếu là Nhà nước. Theo đó, các chủ thể mà đặc biệt là Nhà nước phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp và gián tiếp vào việc thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, phải chủ động xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền con người của mình trong thực tế.

3) Bảo vệ: Nhà nước phải ngăn chặn việc vi phạm quyền con người, quyền công dân đến từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội và cá nhân; ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử hoặc sự hình thành các thế lực đe dọa quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực; điều tra, trừng trị và phục hồi các quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường khi có sai phạm từ phía cơ quan, người có thẩm quyền.

4) Con người là trung tâm trong chiến lược phát triển: đây là quan điểm mà Đảng ta xác định dựa trên việc nhất quán quan điểm “dân là gốc”, giữ vai trò nền tảng.

Trong công cuộc Đổi mới, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển; coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đều xuất phát từ con người, lấy con người là trung tâm.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển”. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân…; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”; về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ Đại hội XIII và các năm tiếp theo, Đảng ta nêu rõ: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”.

Như vậy, Đảng ta đã phát triển thêm một bước tiếp cận mới không chỉ về lý luận mà còn dựa trên tổng kết từ thực tiễn sau gần 40 năm đổi mới và cả chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quan điểm nhân dân là trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển, đã làm rõ hơn về chủ thể thụ hưởng quyền con người đó chính là nhân dân.

Đây là cách tiếp cận mới về quyền con người, hướng tiếp cận này chính là phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định chính sách phát triển; đây là phương pháp tiếp cận đang được Liên hợp quốc cùng nhiều nước phát triển sử dụng rộng rãi trong hoạch định chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển.

Thành tựu của Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viện dẫn một chân lý hiển nhiên, rằng “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Với truyền thống yêu chuộng hòa bình và công lý, là dân tộc đã phải trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam càng hiểu rõ giá trị cao quý của quyền con người và quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng định trong Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người, Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna.

Vì vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi của hoàn cảnh chính trị, quyền con người vẫn luôn được thể hiện sâu sắc qua bản hiến pháp năm 1946 và các bản hiến pháp tiếp theo của Việt Nam từ Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đến Hiến pháp năm 2013. Trên tinh thần đó, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, con người luôn được đặt ở trung tâm của mọi chiến lược, chính sách, vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển đất nước Việt Nam. Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc (năm 1977), Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.

Công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay ở Việt Nam, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước là công nhận, tôn trọng bảo vệ quyền con người, lấy con người là trung tâm trong chiến lược phát triển và luôn được lồng ghép vào mọi chiến lược và chương trình phát triển của đất nước nhằm đáp ứng nhu cầu, khát vọng của các tầng lớp nhân dân.

Nhà nước Việt Nam đã triển khai các biện pháp đồng bộ, ưu tiên dành nguồn lực để đầu tư cho con người; các nguyên tắc, chuẩn mực về quyền con người đã được Việt Nam nỗ lực thực hiện và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận ở tất cả các lĩnh vực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng, đánh giá cao.

Trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế và xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tương thích với các chuẩn mực quốc tế và tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn mới.

Quan điểm xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”.

Nhận thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng nghỉ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, thể hiện đầy đủ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa được thừa nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người và các công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người của Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên, “Tính đến năm 2022, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó, có 7/8 công ước cơ bản”.

Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 được xem là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến về bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người, quyền công dân trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; đồng thời, bổ sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế pháp lý về quyền con người được ghi nhận trong các bản Hiến pháp, hiện Việt Nam đang đẩy mạnh việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật về quyền con người để bảo đảm sự tương thích với Hiến pháp 2013. Chỉ tính “từ năm 2019 -11/2023, Việt Nam đã tiếp tục các nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền với 44 luật thông qua, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân”.

Bên cạnh đó, Việt Nam thời gian qua đã nỗ lực kiện toàn, đổi mới tổ chức và hoạt động đối với các thiết chế bảo đảm quyền con người phù hợp với điều kiện thực tiễn nhằm phát huy vai trò, hiệu quả tối đa trong bảo vệ quyền con người.

Quốc hội đã ban hành Hiến pháp, bộ luật, luật trên tinh thần đề cao, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Chính phủ - cơ quan đưa các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về quyền con người đi vào đời sống, bảo đảm quyền con người được thực thi trong đời sống. Hệ thống Viện Kiểm sát, Tòa án - cơ quan có nhiệm vụ “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người” đã có những sự đổi mới đáng kể nhằm phát huy tối đa vai trò của cơ quan tư pháp, xứng đáng là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi vi phạm pháp luật.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội như: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi Việt Nam, Hội Bảo trợ tư pháp cho người nghèo Việt Nam, Hội Cứu trợ Trẻ em tàn tật Việt Nam, Hội Người mù, Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam, Ban Điều phối hỗ trợ hoạt động của người tàn tật,... thông qua nhiều hình thức khác nhau đã thể hiện được vai trò của mình trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người.

Trong hoạt động thúc đẩy bảo đảm quyền con người cũng cần phải nhắc đến vị trí và vai trò quan trọng của các cơ quan nghiên cứu,các cơ sở đào tạo, các trường đại học trực tiếp góp phần tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền con người và công trình nghiên cứu nhằm xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.

Với nỗ lực xây dựng và thực thi pháp luật về quyền con người; kiện toàn, đổi mới các thiết chế bảo đảm quyền con người, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội.

Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người cơ bản như quyền làm chủ của nhân dân; quyền tham gia quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước, hệ thống chính trị; quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và cùng nhau phát triển của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam; quyền được sống trong đất nước độc lập, có chủ quyền….

Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước thực hiện một cách tích cực, đồng bộ trong triển khai các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc gia như giảm nghèo; việc làm, thu nhập; an sinh xã hội. Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo đảm các quyền con người cơ bản như quyền về sở hữu, quyền lao động, quyền có việc làm, quyền được sản xuất - kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế….

Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tư tưởng: Nhà nước Việt Nam luôn ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm trong thực tế mỗi người dân Việt Nam đều được hưởng các quyền tự do tín ngưỡng, văn hóa; quyền tự do đi lại; quyền được tiếp cận thông tin; quyền được học tập, giáo dục; quyền được chăm sóc về y tế, sức khỏe; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa; các quyền về an sinh xã hội; các quyền công dân cơ bản. Vấn đề bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, xét theo các tiêu chí như: chống phân biệt đối xử; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội.

Trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế: Việt Nam là thành viên của Công ước quốc tế về quyền con người và luôn nỗ lực để thực hiện các quy định trong Công ước nhằm bảo vệ quyền con người. Trong nhiều năm qua, Việt Nam còn tích cực, chủ động và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và thế giới như Hội đồng Nhân quyền, Ủy ban Xã hội, Nhân đạo và Văn hóa của Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế - Xã hội và các diễn đàn khác của Liên hợp quốc. Điều này thể hiện rõ thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao những lần Việt Nam gia nhập Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Bên cạnh những kết quả, thành tựu nêu trên, việc công nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay vẫn còn một số hạn chế như: hệ thống thể chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay trong một số trường hợp chưa phù hợp và chưa đầy đủ so với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia; hoạt động của một số thiết chế ở Việt Nam chưa thực sự hiệu quả, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm quyền con người hiện nay, một số quyền con người mới dừng ở mức độ công nhận, việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong thực tiễn gặp những khó khăn nhất định, hiệu quả chưa cao, v.v..

Có thể khẳng định, dù còn nhiều khó khăn, thách thức, hạn chế nhất định bởi cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong nhiều năm qua, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người.

Một số định hướng, giải pháp để con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước

Trong thời gian tới, đất nước ta bước sang giai đoạn phát triển mới, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng được xác định tại Đại hội XI của Đảng là “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, và Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định “nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu ngày càng tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ tốt hơn quyền con người trên cơ sở một nhà nước pháp quyền, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời góp phần cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề khu vực và toàn cầu có liên quan đến quyền con người. Theo đó, cần tổ chức thực hiện tốt một số nội dung, nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các chủ thể trong xã hội về quyền con người và việc công nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Việc công nhân, tôn trọng và bảo vệ hiệu quả quyền con người có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển con người toàn diện của mỗi cá nhân và sự ổn định, phát triển thịnh vượng chung của cộng đồng, dân tộc; là nguyên tắc, tiêu chí của nhà nước pháp quyền; là một yêu cầu để bảo đảm thành công cho quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, cần tiếp tục kiên định lập trường tư tưởng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người; nâng cao nhận thức của các chủ thể trong việc quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn trọng, bảo vệ quyền con người.

Bên cạnh đó, chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đối với mọi chủ thể trong xã hội, nhất là các tầng lớp nhân dân về quyền con người nhằm không chỉ nâng cao tri thức, ý thức tuân thủ pháp luật nói chung, mà còn là một cách thức trao quyền để người dân có thể tự bảo vệ quyền của mình và biết tôn trọng quyền và tự do của người khác. Việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn về quyền con người giúp mỗi người hành xử đúng, tránh được những nhận thức và hành động cực đoan, đặc biệt là nhận diện được các hành vi lợi dụng quyền con người vi phạm pháp luật. Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm thúc đẩy và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng, ý nghĩa của việc công nhận, tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.

Hai là, tiếp tục kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền tự do cơ bản của người dân, hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Từ quan điểm “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, “hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”, Nhà nước cần đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật về quyền con người, tiếp tục củng cố hệ thống các quyền con người, quyền công dân đã được hiến định. Điều này bao gồm việc bổ sung, cụ thể hóa một số quyền con người đã được hiến định; sửa đổi quy định về việc hạn chế quyền con người để phù hợp với tinh thần của luật nhân quyền quốc tế, vì lợi ích công cộng; củng cố các quy định về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm các nhóm phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, lao động di trú… Đây sẽ là khuôn khổ pháp lý để thực hiện tốt các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như dân sự, chính trị, đồng thời xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm quyền con người. Bên cạnh đó, trong thời gian tới cần xây dựng một hệ thống các thủ tục tố tụng bảo vệ quyền con người theo phương châm cụ thể, đơn giản, chính xác, minh bạch và thuận lợi. Bổ sung các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của các cơ quan nhà nước trung ương và ở địa phương, v.v..

Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động các thiết chế hệ thống chính trị, thiết chế xã hội bảo đảm thực hiện quyền con người khả thi và hiệu quả. Thời gian tới cần chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tiếp tục đổi mới tư duy, tầm nhìn trong việc ban hành các chủ trương, đường lối của Đảng về quyền con người; cần thiết nhấn mạnh vai trò lập pháp của Quốc hội trong việc ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý để tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn xã hội. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ - cơ quan hành pháp theo hướng kiến tạo, phát triển, năng động và bảo đảm quyền con người. Tăng tính độc lập của cơ quan tư pháp với mục đích: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vai trò của các tổ chức xã hội trong bảo đảm, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người.

Bốn là, tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc có liên quan đến quyền con người trên tinh thần bình đẳng, tôn trong luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tăng cường hợp tác, đối thoại với các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc, nhất là với Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc; thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời tiếp tục xem xét việc tham gia các công ước quốc tế khác về quyền con người. Việt Nam cần tiếp tục tham gia tích cực, có trách nhiệm vào công việc của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc; tăng cường tham gia và có đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy hợp tác trong ASEAN về nhân quyền, đặc biệt tại Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền AICHR và trong triển khai Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN; tăng cường đối thoại nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các nước, các tổ chức trên lĩnh vực quyền con người, v.v..

Năm là, tích cực, chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch trên lĩnh vực quyền con người để đề xuất giải pháp phù hợp. Căn cứ vào nghị quyết và hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải một là chiến sĩ xung kích trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng; thực hành phát huy dân chủ và quyền con người; các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở cần xác định rõ nội dung, biện pháp, yêu cầu cụ thể trong nhiệm vụ bảo đảm, bảo vệ quyền con người phù hợp với từng giai đoạn, tình hình tại đơn vị, địa phương, cơ sở. Trong đó, chú trọng đổi mới nội dung, phương thức đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực quyền con người. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

PGS.TS Lê Hải Bình - Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng

Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Tin cùng chuyên mục

Đọc thêm

Hải Phòng: Thực hiện nghiêm, hiệu quả công tác quản lý Lý lịch tư pháp

Hải Phòng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp Phiếu LLTP, xóa án tích.
(PLVN) -  Được sự quan tâm, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, UBND TP Hải Phòng, công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp (LLTP) và xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP của Hải Phòng dần đi vào nền nếp; qua đó góp phần cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi làm thủ tục đề nghị cấp Phiếu LLTP.

Nữ cán bộ ngành Tư pháp tự tin, tỏa sáng dịp 20/10

Các đại biểu tham dự buổi sinh hoạt nữ công chiều 18/10.
(PLVN) - Chiều 18/10, nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Bộ Tư pháp phối hợp với Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ ngành Tư pháp tổ chức buổi sinh hoạt nữ công để ôn lại truyền thống, nâng cao nhận thức của công chức, viên chức nói chung; công chức, viên chức nữ nói riêng về vai trò, sự đóng góp đối với Bộ, ngành Tư pháp, đồng thời tăng cường giao lưu, tạo sự gắn kết trong cơ quan Bộ.

Chi bộ Khối Hành chính (Đảng bộ Báo Pháp luật Việt Nam): Sinh hoạt chi bộ tháng 10 và kết nạp đảng viên mới tại Sài Sơn, Quốc Oai

Các đảng viên Chi bộ Khối Hành chính tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Chùa Thầy)
(PLVN) - Sáng 18/10, tại Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh – Khu Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, Chi bộ Khối Hành chính thuộc Đảng bộ Báo Pháp luật Việt Nam đã có buổi dâng hương tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh; Tổ chức sinh hoạt chi bộ tháng 10;

Cần có chế độ, chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo.
(PLVN) - Ngày 18/10, Trường Đại học Luật Hà Nội đã phối hợp với Viện Nghiên cứu lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Hội thảo khoa học về Chính sách, pháp luật về nhà giáo: Tiếp cận từ thực tiễn các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam hiện nay. PGS.TS Tô Văn Hoà, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội và ông Nguyễn Văn Hiển, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chủ trì Hội thảo.

Giáo sư, Viện sĩ danh dự Nguyễn Văn Đệ: Người nặng lòng với sự nghiệp Y tế tư nhân Việt Nam

Giáo sư, Viện sĩ danh dự Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cổ phần Hợp Lực, doanh nhân thành công ở nhiều lĩnh vực kinh doanh- đầu tư.
(PLVN) -Tính từ năm 2014 đến nay, Giáo sư, Viện sỹ danh dự Nguyễn Văn Đệ cùng Ban chấp hành Hiệp hội Y tế tư nhân Việt Nam đã tham gia hàng trăm văn bản góp ý về hoạt động xây dựng phát triển doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực y tế đến Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành. Cũng từ đó nhiều chính sách mở đường cho y tế tư nhân có sự công bằng, phát triển mạnh mẽ và có vị thế như ngày hôm nay.

Hướng dẫn kỹ năng 'Thần thái đẹp - Phong cách sang' cho chị em phụ nữ Báo Pháp luật Việt Nam dịp 20/10

Hướng dẫn kỹ năng 'Thần thái đẹp - Phong cách sang' cho chị em phụ nữ Báo Pháp luật Việt Nam dịp 20/10

(PLVN) - Nằm trong chuỗi hoạt động Chào mừng Ngày Phụ nữ Việt Nam, sáng 17/10, tại Hà Nội, Công đoàn Báo Pháp luật Việt Nam tổ chức khóa học với chủ đề "Thần thái đẹp - Phong cách sang", nhằm cung cấp những thông tin hữu ích giúp chị em phụ nữ trở nên xinh đẹp, thần thái và sang trọng hơn.