Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng
GS.TS Trần Ngọc Đường, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội |
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một thành tố trung tâm của hệ thống chính trị nước ta. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Đồng thời, tiếp tục xây dựng và đổi mới đồng bộ các thành tố khác của hệ thống chính trị cũng là điều kiện để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhà nước vốn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”(1) nhưng “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”(2). Vì thế, trong đường lối lãnh đạo của mình ở từng thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện Nhà nước - yếu tố trung tâm của hệ thống chính trị. Trong những năm sắp tới, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(3)
Những thành tựu cơ bản
Trước hết, qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước đã có sự phát triển về chất để chỉ đạo quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Từ Nhà nước hành chính, quan liêu bao cấp, tổ chức và hoạt động theo mô hình tập quyền XHCN sang tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động mới, là một bước đột phá về nhận thức tư duy, lý luận để từng bước chỉ đạo quá trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đầu tiên, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã đề ra một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước mới là: Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng là bước đổi mới rất cơ bản trong tư duy để đề ra chủ trương “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) khẳng định. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, là một định hướng cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Theo đó, năm 2001, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta đã trang trọng ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ... Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(4).
Tiếp theo đó, Đại hội XI của Đảng đề cập đến vấn đề này và khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(5), trong đó đề cập đến vấn đề xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy, lý luận để tiến tới vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) được ghi nhận thành nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Và sau đó được Hiến pháp năm 2013 thể chế hóa thành nguyên tắc hiến định và hình thành các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước (cơ chế Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo luật định).
Những quy định của Đảng và các quy định của Hiến pháp về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hơn 35 năm qua, đặc biệt là trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã nâng cao nhận thức, năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển của Nhà nước.
Hai là, qua hơn 35 năm đổi mới, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN có bước phát triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đã từng bước được đổi mới, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của đất nước và thông lệ quốc tế. Bộ máy nhà nước được sắp xếp ngày càng tinh gọn, gắn với tinh giản biên chế; hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn trước.
Ba là, cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước tiến rõ rệt. Nền hành chính quốc gia đã được cải cách theo hướng phục vụ Nhân dân, phục vụ doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp, như tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân và doanh nghiệp.
Bốn là, nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng đầy đủ, rõ nét, góp phần đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện lạm dụng, tha hóa quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước, mà đặc biệt là tình trạng tham nhũng, tiêu cực, được Nhân dân và dư luận xã hội đồng tình và ủng hộ. Cơ chế Nhân dân kiểm soát quyền lực được hình thành với chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận bằng việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 thành hai chương, 11 điều về giám sát và phản biện xã hội trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015. Cơ chế giám sát và phản biện xã hội bước đầu phát huy hiệu quả trong việc góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong mỗi quyền và giữa các quyền được tăng cường. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp tăng cường các hoạt động giám sát đối với việc thực hiện các quyền hành pháp và tư pháp. Bên trong mỗi quyền cũng đều tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để sớm phát hiện những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng. Có thể nói, từ sau Hiến pháp năm 2013 đến nay, từ nhận thức đến tổ chức thực hiện, kiểm soát quyền lực đã được coi trọng, góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Năm là, vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chỉ trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV vừa qua, Quốc hội đã xem xét và thông qua 72 dự án luật và 18 nghị quyết có quy phạm pháp luật, bao quát hầu khắp các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Từ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước, về công chức, công vụ, về bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa và quốc phòng - an ninh đều có bước nâng lên về chất lượng làm cho hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng đồng bộ, khả thi, chứa đựng nhiều giá trị trong nước cũng như của nhân loại. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, việc tổ chức thi hành pháp luật cũng được coi trọng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường; ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên một bước.
Một số hạn chế, bất cập cần khắc phục
Tuy thành tựu đạt được là cơ bản, nhưng công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân trong những năm qua cũng còn một số hạn chế, bất cập mà Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng chỉ ra cần phải khắc phục.
Thứ nhất, vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã hội, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt còn lúng túng. Ví dụ như, một trong những định hướng đổi mới giáo dục - đào tạo và y tế theo hướng xã hội hóa với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy dịch vụ công còn nhiều lúng túng và thiếu đồng bộ.
Thứ hai, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện. Vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ. Theo Hiến pháp năm 2013 thì giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng mới chỉ coi trọng kiểm soát của quyền lập pháp đối với hành pháp và tư pháp thông qua giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội. Cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong mỗi quyền chưa độc lập và đủ mạnh. Cơ chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp hoạt động chưa thực chất, còn có biểu hiện hình thức.
Thứ ba, hệ thống pháp luật còn có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội mà thực tiễn đòi hỏi. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ; xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở một số nơi chưa được đổi mới một cách mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn quá lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động trong thời gian tới
Trước tình hình thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch COVID-19. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn, như nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn còn lớn. Đứng trước bối cảnh tình hình trong nước và thế giới nói trên; đồng thời, để khắc phục những yếu kém, hạn chế, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong thời gian tới, trong đó có những điểm mới so với trước đây.
Trước hết, Đại hội XIII của Đảng xác định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Định hướng chung là: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(6). Theo định hướng đó, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra trong thời gian tới phải: “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính”(7) là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị trong những năm tới.
Có thể nói lần đầu tiên thuật ngữ: “Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động” chính thức được sử dụng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta. Đây là sự tiếp tục phát triển và làm sâu sắc hơn bản chất và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong điều kiện mới. Theo đó, trước hết, Nhà nước pháp quyền XHCN phải nâng cao năng lực kiến tạo phát triển tức là năng lực không chỉ nắm bắt và xử lý kịp thời một xã hội tràn ngập thông tin với sự liên kết trên bình diện xã hội rất nhanh chóng và mau lẹ, mà còn phải có khả năng phân tích thông tin, từ đó biết cách sáng tạo và áp dụng các tri thức mới để quản trị quốc gia (tức là năng lực kiến tạo). Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện ngày nay còn là một Nhà nước có một bộ máy quản lý điều hành hướng tới nhu cầu cải tạo môi trường quản lý, bảo đảm sự nhanh nhạy, linh hoạt về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, vừa kiến tạo bên trong chính mình, vừa kiến tạo môi trường mà nó vận hành. Đó còn là Nhà nước pháp quyền tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, phục vụ doanh nghiệp; nền hành chính dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền lấy thượng tôn pháp luật, công khai, minh bạch, liêm chính, phục vụ Nhân dân, phục vụ doanh nghiệp làm nguyên tắc hàng đầu trong xử lý công việc. Đó là một nền hành chính gồm các công chức có năng lực kiến tạo, xác lập được sự kết nối xã hội, tạo dựng sự thống nhất và bình đẳng trong các mối quan hệ giữa các chủ thể khác nhau.
Hai là, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo các nội dung cụ thể sau:
Đối với việc xây dựng và hoàn thiện thiết chế Quốc hội, cần phải: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”(8) theo các định hướng cụ thể và có nhiều điểm mới. Trước hết, hoạt động cơ bản của Quốc hội là hoạt động nghị trường, vì thế đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nghị trường là nhiệm vụ hàng đầu của đổi mới Quốc hội. Trong đó chủ yếu là phát huy dân chủ và pháp quyền trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp theo hướng đẩy mạnh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường công tác giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát tối cao của Quốc hội với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội của Nhân dân.
Đối với việc xây dựng và hoàn thiện thiết chế Chính phủ: Định hướng tổng quát xây dựng thiết chế Chính phủ trong những năm tới được Đại hội XIII của Đảng xác định là: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(9). Để thực hiện mục tiêu tổng quát đó, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Chính phủ trong những năm sắp tới là tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, trong đó tập trung vào quản lý vĩ mô; xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện mới. “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp, làm sai lệch các quan hệ thị trường”(10). Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương...; bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất. Đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Nâng cao chất lượng dịch vụ công, tiếp tục sắp xếp tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả. Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa cơ quan các cấp; giữa cơ quan, người dân và doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả hệ thống pháp luật; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.
Đối với việc xây dựng và hoàn thiện các cơ quan tư pháp: Định hướng tổng quát xây dựng nền tư pháp Việt Nam là: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”(11). Theo đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ ra những nhiệm vụ cần phải làm trong những năm tới là “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030 định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định”(12). Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Đối với việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương, định hướng chung là: “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”(13). Theo đó, Đại hội XIII của Đảng chỉ ra các việc cần phải làm trong thời gian tới là tổng kết việc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản lý chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”(14). Theo đó, phải làm tốt các công việc: Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ chính sách đãi ngộ, tạo môi trường điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phục vụ phát triển; xây dựng cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp./.
GS. TS. Trần Ngọc Đường
Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
____________________
(1) (2) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t.39, tr.75, 76.
(3) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr. 174, 174-175, 284, 175, 176, 285, 177, 177-178, 178, 288.
(4) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013, 1992, 1980, 1959, 1946), Nxb. Lao động, H, 2014, tr.67.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.247.