Bốn mươi lăm năm đã trôi qua nhưng giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại và không khí hào hùng của Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn nguyên trong ký ức của đồng bào, của chiến sĩ cả nước, nhất là với quân và dân Hà Nội. Hà Nội đã trở thành biểu tượng của niềm tin, ý chí quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đối với bạn bè quốc tế, Việt Nam đã trở thành lương tri của thời đại. Dòng ký ức của các nhân chứng lịch sử, họ là những cô gái bên mâm pháo cao xạ, là những người thợ, công nhân, dân công trở về đầy ắp, sáng ngời. Họ góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không vĩ đại. Hà Nội một thời hào hoa và đau thương đã được nhắc nhớ, khai mở cho mỗi người về tình yêu quê hương, đất nước.
“Tôi không thể lý giải được tại sao mình lại bị bắn rơi”
Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” với những ký ức không phai mờ về giai đoạn lịch sử Hà Nội 12 ngày đêm đến nay vẫn hiển hiện rõ nét trong tâm trí của nhiều thế hệ người Việt. “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh dũng, thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ của các lực lượng vũ trang nhân dân trong cả nước, trong đó nòng cốt là Bộ đội Phòng không – Không quân và nổi bật là quân dân Thủ đô Hà Nội đã phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc, nêu cao tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chiến đấu mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, kiên cường.
Trong suốt 12 ngày đêm (từ 18 đến 30/12/1972, lực lượng vũ trang đã phối hợp với quân dân thành phố xây dựng lưới lửa phòng không độc đáo, nhiều tầng, nhiều lớp, lập nên một kỳ tích chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Thắng lợi này buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam tập trung toàn lực, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trung tướng, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Phạm Tuân đánh giá, chiến thắng Điện Biên Phủ trên không đã bẻ gãy ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ, ngoài chiến công bắn rơi máy bay địch, việc bảo vệ các mục tiêu là hết sức quan trọng. Cụ thể, sau chiến tranh, chỉ có 2 vệt bom B52 rơi vào nội thành, một vệt rơi vào Bệnh viện Bạch Mai và một vệt xuống phố Khâm Thiên, còn hàng trăm lần khác, các tốp máy bay không thể bay vào Hà Nội được, giúp thành phố và các cơ quan trung ương gần như còn nguyên vẹn, tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn. “Chỉ 5 tốp B52 vào Hà Nội thì thành phố sẽ bị san bằng. Và sau đó, dù có bắn rơi bao nhiêu thì chúng ta khôi phục lại rất khó. Nhưng sau chiến tranh, Hà Nội cơ bản còn nguyên vẹn, Trung ương còn nguyên vẹn và tiếp tục chỉ đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng”, ông Tuân nói.
Bên cạnh đó, ông Tuân cho biết, lúc bấy giờ, chúng ta chỉ mong đánh chứ không nghĩ đến hy sinh. Không quân xác định nếu bắn hai quả tên lửa mà B52 không rơi thì sẵn sàng là quả tên lửa thứ 3. “Và sau này anh Vũ Xuân Thiều đã làm như thế. Anh ở cự ly rất gần, nếu không phải là đánh B52 thì anh thoát ra để đi đánh tiếp, nhưng mệnh lệnh đánh B52 đưa ra rồi, anh xông thẳng vào máy bay địch. Ý chí cao như thế”, ông Tuân chia sẻ.
Ông Tuân cũng đánh giá cao sự phối hợp tác chiến giữa các quân, binh chủng. “Dưới thì pháo bắn lên, trên thì máy bay F4 bắn tên lửa để gây nhiễu, lốm đốm như pháo hoa ngày Tết ấy. Lúc đó bầu trời Hà Nội nhỏ lắm, mỗi đêm 30 – 50 lần B52 thì có khoảng 300 lần máy bay các loại hộ tống. Bầu trời Hà Nội kín máy bay, mà phải vượt qua nó để đánh B52. Tôi bay trên trời cũng sợ, bay thấp là sợ chị em dân quân bắn. Chúng tôi là phi công, biết rõ từng vị trí phòng thủ rồi mà còn ngán nữa là phi công Mỹ. Nếu máy bay địch vào, không quân của ta đuổi từ bên ngoài, tên lửa bắn lên, dưới thấp thì dân quân tự vệ, pháo cao xạ bắn, tất cả trận địa đó thành thế trận chiến tranh nhân dân... phi công Mỹ không thể yên tâm được”, Trung tướng Tuân nói.
Người đầu tiên bắn hạ được máy bay B52 trên bầu trời Hà Nội chia sẻ, khi ông gặp một phi công Mỹ bị giam ở Hỏa Lò, ông có hỏi: Khi vào đánh Hà Nội thì có suy nghĩ gì, phi công này bảo: Chúng tôi biết hết các vũ khí của các ông có. Thậm chí chúng tôi còn luyện tập, diễn tập với chúng nữa. Rồi ông Phạm Tuân hỏi tiếp: Bây giờ ở Hỏa Lò thì nghĩ gì, phi công Mỹ trả lời: Đó là cái khó hiểu. Tôi không thể lý giải được tại sao mình lại bị bắn rơi. Anh hùng Phạm Tuân cho rằng, từ ý chí, trí tuệ của người Việt Nam đã làm nên sức mạnh tổng thể, vượt qua khó khăn, nảy sinh ra những sáng tạo để đi đến chiến thắng và có được sự khâm phục từ chính kẻ thù.
“Mãi là nỗi ám ảnh với tôi và người dân Khâm Thiên”
Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên Cục Phó Cục Tác Chiến – Bộ Tổng Tham mưu năm nay đã bước sang tuổi 90. Vị tướng già vẫn nhớ như in từng chi tiết, từng sự kiện quan trọng trong chiến dịch 12 ngày đêm lịch sử trên bầu trời Thủ đô. Là một trong 2 người đầu tiên nhận tin B52 tấn công miền Bắc tại hầm chỉ huy tác chiến T1, Thiếu tướng đã dùng hai từ “lặng người” và “điếng người” khi nhớ lại cảm giác của mình trong đêm 18/12/1972.
“Khi nhận được quyết định kéo còi báo động cho thành phố Hà Nội sớm hơn quy định, tôi khẩn trương chạy lại ấn còi báo động, lập tức còi trên nóc nhà Quốc hội (Hội trường Ba Đình) rú vang. Tức thì, 16 còi báo động trên toàn thành phố cũng tự động hưởng ứng. Trong thâm tâm tôi chỉ nhắc bảo: Đồng bào ơi, xuống hầm. Đồng bào ơi, xuống hầm đi. Khi tôi kéo còi xong, một loạt điện thoại trong hầm Sở chỉ huy kêu lên, nhiều người hỏi đó là thực hay chỉ tập dượt. Tôi trả lời: “Mời đồng chí xuống hầm” và bỏ điện thoại xuống không kịp giải thích”, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh kể lại.
Chia sẻ về những ký ức của 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, nhạc sỹ Phú Quang cho biết: “Đêm B52 rải thảm Thủ đô Hà Nội vẫn là sự ám ảnh với tôi đến bây giờ. Nhà tôi ở phố Khâm Thiên, là nơi đặt tượng đài tưởng niệm nạn nhân Khâm Thiên. Hôm đó, bom nổ ầm ầm cả đoạn phố, tôi và chị gái, anh rể kịp thời xuống căn hầm trú bom. Lúc ngớt bom, cả đoạn phố bị san phẳng và nhìn sang tận phố Đê La Thành. Người bạn thân của tôi cũng bị bức tường gạch đè chết, xác người khắp nơi. Hình ảnh người phụ nữ lặng người cầm viên gạch vỡ đưa tiễn 26 người con, cháu, họ hàng bị chết trong trận rải thảm bom B52 ngày đó vẫn là nỗi ám ảnh với tôi và người dân Khâm Thiên”.
Nhạc sĩ Phú Quang kể, sau này, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp vận động các ca sĩ, nhạc sĩ có tên tuổi, tài năng viết giao hưởng về chiến tranh. “Tôi có viết một bản Hồi ức. Trình diễn xong, tôi xuống hỏi thấy thế nào thì anh ấy nói “nghe bài của Quang anh khóc luôn”. Nhìn sang 3/4 khán giả Nhà hát Lớn Sài Gòn cũng khóc. Nhạc không lời mà họ khóc như thế, tôi nghĩ do bản nhạc có kỷ niệm không quên của bản thân. Cuộc chiến tranh đó xót xa lắm. Sau này tôi đi lại trên đường Khâm Thiên ban đêm và đến đài tưởng niệm, mặc dù rêu xanh rồi nhưng tôi lúc nào cũng xót xa”.
Pháo thủ Phạm Thị Viễn – cô gái trắng khăn tang bên mâm pháo năm xưa, nghe nhắc đến những ngày cuối tháng chạp năm 1972, giọng bà chùng xuống, ký ức dội về những năm tháng đau thương nhất trong cuộc đời bà. Năm 1967 ngôi nhà của gia đình bà bị trúng bom khiến mẹ bà qua đời khi đó bà mới tuổi đôi mươi. Bà đã tham gia tự vệ. Trung đội tự vệ của Nhà máy cơ khí Mai Động gồm 11 người và hai khẩu pháo phòng không 14,5mm. Ngày 26 -12/1972, Hà Nội ngập trong khói bom, những chùm bom ác nghiệt đã gieo tai ương thảm khốc xuống các khu dân cư như dãy phố Khâm Thiên, Yên Viên, Uy Nỗ... Đêm ấy, cả thành phố thấp thỏm trong tiếng còi báo động chốc chốc lại rú lên kinh hoàng. Một loạt B 52 bất ngờ dội bom xuống làng Tương Mai và bố bà đã qua đời trong trận bom thả đó.
“Căn hầm nơi ông thường ẩn nấp đã thành một hố bom sâu hoắm, mãi ba ngày sau tôi mới tìm thấy bố nhưng chỉ còn một phần thân thể rách nát, chỉ nhận ra ông qua vạt bông đẫm máu. Vừa khóc tôi vừa nhặt từng phần xương thịt của bố gom lại. Nhiều ngày sau, tôi mới lại tìm thấy bàn tay của bố. Mỗi lần nhặt được chút xương thịt nào, ba chị em lại gói vào tấm nilông rồi vùi xuống mộ bố”, bà Viễn xúc động nhớ lại.
... Và còn rất nhiều cựu chiến binh đã từng được sống trong thời khắc lịch sử đó mà chúng tôi chưa có dịp được gặp nhưng khi nhắc lại về một thời lịch sử oai hùng, chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không” là chiến thắng của cuộc chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thể hiện rõ bản lĩnh trí tuệ và sức mạnh Việt Nam trong thời đại mới. Bốn mươi lăm năm nhìn lại, chúng ta càng thấy tự hào về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong thế kỷ 20. Để viết nên trang sử vẻ vang đó, bao nhiêu mồ hôi, máu và nước mắt đã đổ xuống mảnh đất quê hương, biết bao lớp người đi trước đã ngã xuống, bao người trở về chẳng còn lành lặn.