Có một Hà Nội không bao giờ… cũ

Ô Quan Chưởng ở Hà Nội.
Ô Quan Chưởng ở Hà Nội.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  “Triệu dấu chân qua những cửa ô” là tên tập du khảo mới ra mắt của nhà văn Nguyễn Trương Quý. Gần 20 năm qua, anh là một cây viết miệt mài về Hà Nội, kể những câu chuyện văn hóa, những đời người, hồn phố thân quen, dung dị và hoài nhớ…

Hồn phố qua những bước chân đi về

Theo Nguyễn Trương Quý, anh đến với văn chương từ những trang sách đọc hồi bé. Rồi sau này đi thi học sinh giỏi, học chuyên văn trường Hà Nội-Amsterdam. Khi ấy, anh yêu thích hội họa, đến giờ anh vẫn vẽ tranh và luôn mong muốn có những khoảng lặng để tập trung vào vẽ. Sau này Nguyễn Trương Quý học kiến trúc, đã đi làm nhưng lại rẽ sang viết văn. Đến nay, anh có hàng chục cuốn sách gây thương nhớ về Hà Nội.

Sinh năm 1977 tại Hà Nội, Nguyễn Trương Quý tốt nghiệp Đại học Kiến trúc và từng là kiến trúc sư. Và rồi anh đã cầm bút viết về Hà Nội với những tác phẩm như: “Tự nhiên như người Hà Nội”, “Ăn phở rất khó thấy ngon”, “Hà Nội là Hà Nội”, “Còn ai hát về Hà Nội”, “Xe máy tiếu ngạo”, “Dưới cột đèn rót một ấm trà”. Anh cho biết, sẽ tiếp tục với những câu chuyện Hà Nội ở góc độ con người làm việc ở Hà Nội, các câu chuyện cụ thể, viết sao cho thú vị thì tự thân đó đã là một cách quảng bá Hà Nội rồi.

Anh chia sẻ: “Tôi thấy sự vận động của thành phố với một khối cộng đồng người thích ứng rất nhanh và năng động. Sự năng động ở đây bao hàm việc người ta biết cách dịch chuyển trên thực địa bằng phương tiện nào. Có vô số câu chuyện về phương tiện. Nào là một thời “Một yêu anh có Pơ-giô (peugeot)”, xe đạp như một gia tài khủng khiếp. Nào là những câu chuyện về xe Simson, xe “kim vàng giọt lệ”,… cho đến xe Dream Thái như một sự khẳng định “thương hiệu” của những anh trai phố. Và nhiều câu chuyện khác cho tới nay để thấy phương tiện thay đổi, nhưng cách nhìn vào sự chuyển động vẫn theo một quy luật”.

Đó là sự dịch chuyển của con người trong tâm tưởng, mà hiện nay người Hà Nội vẫn thường gọi là “nhảy số”. Họ biết cách thích ứng và dịch chuyển mau lẹ với thời cuộc, với không gian sống. Chính điều này khiến những câu chuyện về Hà Nội không bao giờ bị cũ. Viết về cái cũ, khảo về cái xưa, nhưng thực chất đều là những câu chuyện đương thời.

Tiến sĩ văn học Phạm Xuân Thạch cho rằng, tập du khảo “Triệu dấu chân qua những cửa ô” là một bức chân dung về Hà Nội với tất cả dáng vẻ của nó. Đó là không gian đô thị với 5 cửa ô, với những ngã tư, với những tầng gác cao, với những ánh đèn neon. Đó là cách người Hà Nội đã di chuyển trong thành phố từ chiếc xe đạp, ô tô,… đến những phương tiện đã mất đi như tàu điện hay tàu thủy trên sông,… Đó còn là không gian cây cối, cảnh quan núi non, sông hồ quanh Hà Nội. Tất cả những hình dung về không gian như vậy, làm cho chúng ta gần Hà Nội hơn bao giờ hết.

Với nhà văn Nguyễn Trương Quý, nói về kỷ niệm gắn bó nhất là những con đường thời đi học của một Hà Nội luôn hiện ra với sự quang đãng, dù trời nắng chói chang hay mùa đông giá rét. Con đường anh rất hay đi để đến trường là đê La Thành. Con đường nhỏ đi qua Ô Chợ Dừa với những làng xóm hồi đó còn lúp xúp chân đê.

Ở đó, anh từng cắt tóc, ăn quà sáng là món bún bung do một bà cụ bán, có lẽ giờ bà cũng mất rồi. Sau này, anh mới biết đó chính là một đoạn bức tường lũy thành Đại La và Thăng Long xưa.

Từ đủ mọi câu chuyện như thế, đã trở thành nguồn cơn thôi thúc Nguyễn Trương Quý viết “Triệu dấu chân qua những cửa ô”. Để rồi, nó trở thành cuốn sách đầu tiên vẽ chân dung Hà Nội qua những bước chân đi về.

Cuốn sách quan sát, trong khoảng một trăm năm qua, những đường đi lối lại của người Hà Nội, những phương tiện họ sử dụng, những lối đi quen thuộc cả trong đời thường và trong vọng tưởng. Và trong cuộc đi lại chốn ở và mải miết ấy, theo vòng quay lịch sử, không gian và sự vật đổi thay, kéo theo sự đổi thay của tâm tình người Hà Nội.

Nguyễn Trương Quý cũng thổ lộ: “Tôi bắt đầu mạch những khảo cứu này ở tâm thế kẻ lang thang trên những con đường cũ mới, trong những trang viết, bài thơ hoặc câu hát về chúng, rồi đến một lúc lan rộng ra những ngã rẽ hoặc dừng chân ở những khoảng không gian mà tôi ví chúng như quảng trường, ngã tư. Tập khảo cứu này thực sự là một hành trình được thuật lại”…

Nhà văn Nguyễn Trương Quý

Nhà văn Nguyễn Trương Quý

Dấu xưa còn lại

TS Phạm Xuân Thạch cho rằng, “thay vì dựng lên một huyền thoại của đô thị, Nguyễn Trương Quý tìm cách giải thích, cắt nghĩa về huyền thoại…”. Chẳng hạn với huyền thoại 5 cửa ô, Nguyễn Trương Quý cho biết: “Chúng ta vốn đã rất quen thuộc về hình ảnh 5 cửa ô của Hà Nội, nhất là qua bài hát “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao. “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về/Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào/Chảy dòng sương sớm long lanh…”. Tuy nhiên, theo khảo cứu của tôi, trước năm 1945, Hà Nội đã từng có đến 21 cửa ô, trong đó thống kê trên các văn có tên của 18 cửa ô, nhiều cửa ô hiện nay cũng đã mất dấu”.

Anh cho biết thêm: “Trong bài “Thương về năm cửa ô xưa”, Tạ Tỵ kể về 5 cửa ô và khi đặt vào hình thái bản đồ đã đúng với vị trí của 5 cánh sao. Ô Yên Phụ ở phía Bắc, ô Cầu Giấy ở phía Tây, ô Quan Chưởng ở phía Đông, ô Cầu Dền ở phía Đông Nam và ô Chợ Dừa ở phía Tây Nam”.

Nguyễn Trương Quý cũng cho thấy, có những người khi rời xa thành phố vẫn giữ những ý niệm huyền thoại về Hà Nội, từ cuộc cách mạng đã qua cho đến những ký ức đẹp đẽ khác. Câu chuyện về 5 cửa ô Hà Nội chỉ là một trong rất nhiều “huyền thoại” thú vị khác mà cuốn sách này nhắc nhớ. Như chuyện “mua đường” của Tam Lang, Nguyễn Tuân nhân “một đêm họp đưa ma Phụng” (khi Vũ Trọng Phụng mất năm 1939), hoặc chuyện Nguyễn Tuân mất xe đạp…

Tập du khảo “Triệu dấu chân qua những cửa ô” lần này Nguyễn Trương Quý chọn vẽ chân dung Hà Nội qua những dấu chân đi về. Như anh chia sẻ trong lời nói đầu cuốn sách: “Hà Nội có nhiều cửa ô, tôi chọn biểu tượng này vì lẽ chúng là tên gọi gợi nhớ ngay đến Hà Nội và cửa ô trong tâm tưởng là những lối nhập thành, tìm hiểu những câu chuyện của đời phố”.

Đấy có thể là sự phôi pha của những cửa ô trước sự phát triển của đô thị mới: “Nhưng rồi người Việt cũng mau chóng hấp thụ những hình thái mới, với họ, ngã tư và cột đèn trở thành cặp bài trùng mới cho đô thị, thay cho những bến sông và cửa ô. Ngay chính những cửa ô cũng trở thành các ngã tư, ngã năm khi những đoạn tường lũy bị bạt thấp dần trở thành đường đi. Người Hà Nội đã quen với những ngã năm Chợ Dừa, ngã tư Đại Cồ Việt, ngã tư Cầu Dền mà dần quên hình ảnh các cửa ô từng hiện diện cho đến cuối thế kỷ 19. Phạm vi của những khu phố lan dần ra xa hơn những cửa ô, theo những tuyến đường tàu điện về các ngả” (trích trong “Ngã tư dặt dìu cung bậc âm dương” – “Triệu dấu chân qua những cửa ô”).

Và đó là nỗi hoài nhớ đượm màu lãng mạn của con người dành cho những chiếc tàu điện đã biến mất: “Tiếng leng keng không thay đổi qua năm tháng đã giúp việc hồi cố chồng lấn hai thời Pháp thuộc và bao cấp. Nó khiến người thời bao cấp và cả hậu bao cấp vẫn như được đồng hội, đồng thuyền với người thời Pháp thuộc. Nó mỹ hóa ký ức của họ. Họ nhớ tàu điện là nhớ năm tháng nhọc nhằn, để rồi bồi đắp một ý niệm về vẻ đẹp khổ hạnh mà giờ đây lại thành của hiếm” (trích “Triệu dấu chân qua những cửa ô”).

Giải thích lý do tại sao lại chọn khảo cứu trong khoảng 100 năm, trong khi Hà Nội có tới hơn 1.000 lịch sử, Nguyễn Trương Quý bày tỏ: “Tôi lấy khoảng thời gian ước định một trăm năm là vì có ý tìm một sự đối chiếu giữa hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ 21 với những năm đầu thế kỷ 20.

“Tôi thường đặt những nhân vật văn hóa ấy trong thế tương quan về nội hàm tác phẩm họ đem lại, như Nguyễn Huy Lượng, tác giả “Tụng Tây Hồ phú” ca ngợi cảnh sắc hồ Tây thời Tây Sơn và Phạm Thái, người đã viết bài “Chiến Tụng Tây hồ phú” để đả phá lại và sau đó Phạm Thái lại trở thành nhân vật của Khái Hưng trong tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ”. Nhưng tất cả những nhân vật như vậy lại là chứng nhân cho một không gian quan trọng của Hà Nội là Hồ Tây, chốn được coi như phần hoang dã của thành phố cho đến tận cuối thế kỷ trước, nhưng cũng là một nơi chốn đã ghi lại những dấu vết văn hóa sâu đậm của Thăng Long xưa”.

Theo nhà văn Nguyễn Trương Quý, sự bảo lưu các giá trị thuộc về nếp sống đúng là một thứ giúp làm nên căn tính của một nơi như Hà Nội: Nhưng trong thời đại chính những “thương hiệu” lại là thứ giúp cho mỗi nơi chốn có được sức hút, thì cũng rất cần tìm cách lọc lấy những điều đẹp đẽ đã có, nhất là từng thành nền nếp. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta có xu hướng lưu luyến cái đã qua, là bởi có những giai đoạn đáng ghi nhận trong việc sản sinh ra những sản phẩm văn hóa nghệ thuật giá trị của lịch sử nước nhà”.

Cuốn “Thời thanh xuân của tân nhạc ái quốc” của Nguyễn Trương Quý sắp ra mắt sẽ phục hiện lại những chuyến hành trình sáng tạo của các nhạc sĩ trẻ trong trào lưu tân nhạc thời kỳ đầu, trong đó nổi bật là Lưu Hữu Phước hay Văn Cao, những tên tuổi đã sinh ra các tác phẩm đóng vai trò kiến tạo nên biểu tượng của nước Việt Nam độc lập trong cao trào giải phóng dân tộc. Anh tâm sự: “Hà Nội đối với những diễn biến đó thực sự là một chiến địa văn hóa nhiều ẩn số nhưng cũng rất thú vị đối với một người tiến hành du khảo”…

Có lẽ vì thế mà trang viết của anh luôn ám ảnh về không gian Hà Nội. Và những trang viết là một Hà Nội với những lắng sâu, những con ngõ miên man như đời người…

Tin cùng chuyên mục

Trải qua gần 200 năm, Lễ hội đua thuyền tứ linh ở Lý Sơn vẫn được gìn giữ, phát huy. (Ảnh: Alex Cao)

Đặc sắc Lễ hội đua thuyền tứ linh ở đảo Lý Sơn

(PLVN) - Lễ hội đua thuyền tứ linh là nét văn hóa truyền thống dân gian mang đậm bản sắc của cư dân huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Người dân Lý Sơn tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ cội nguồn tổ tiên, các vị tiền hiền buổi đầu khai sinh đất đảo và đội hùng binh Hoàng Sa đã có công bảo vệ biên cương Tổ quốc cũng như cầu cho mưa thuận gió hòa, làng xóm yên bình, mùa màng tươi tốt.

Đọc thêm

Chuyện tình đẹp như mơ của “Đôi song ca miền thùy dương”

Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết được biết đến với mối tình thủy chung. (Nguồn: Thegioigiaitri)
(PLVN) - Vào thập niên 50, 60, cặp đôi danh ca Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết là một trong những “ngôi sao” của làng tân nhạc Việt Nam. Gần 60 năm bên nhau, cặp đôi Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết không chỉ ghi dấu trong lòng người hâm mộ bằng những câu hát rung động lòng người, mà còn bằng mối tình sắt son, thủy chung của cả hai.

Lời hồi đáp

Lời hồi đáp
(PLVN) - Có những khoảng trống không tên gợi lên nỗi nhớ nhung hoặc tôi cố gắng không nhồi nhét một cái tên vào đó. Vì chỉ cần định hình một cái tên thôi thì có nghĩa mình đã nhớ thương người ta đến mức nào...

“Bắt” người nghe phải nghe mình nói

 “Bắt” người nghe phải nghe mình nói
(PLVN) - Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, làm thế nào để lời nói của bạn không chỉ được lắng nghe mà còn đọng lại trong tâm trí người khác? Đâu là bí quyết để thông điệp của bạn trở nên nổi bật trước những đối thủ khác? Câu trả lời nằm ở sức mạnh của sự đơn giản. Một thông điệp đơn giản, rõ ràng không chỉ dễ nhớ, dễ tiếp cận mà còn làm nổi bật những điều bạn truyền tải. Nhưng vì sao đơn giản lại hiệu quả? Và làm cách nào để biến những ý tưởng phức tạp trở thành những thứ đơn giản, thu hút?

Sông con gái

Sông con gái
(PLVN) - Cánh chim én vụt qua nền trời, soi lên mặt sông những vệt dài mờ ảo. Soi lên cả rừng hoa cải đang nở đầy một vạt sông. Người đến khu Đoài vẫn bảo, không hoa cải nơi đâu bền như nơi này. Mọi nơi hoa cải vàng, cải trắng nở đận tháng mười mùa đông. Nhưng bến thôn Đoài cứ phải sang xuân. Hoa cứ ngặt lên, hoa cải củ trắng thì trắng đến nhức nhối, hoa cải sen đã vàng là đến kiệt cùng.

Sắp 'đối đầu với tiền bối', HLV Kim Sang Sik nói gì?

HLV Kim Sang Sik cho rằng đội tuyển Việt Nam có cơ hội chiến thắng Indonesia (Ảnh: VFF)
(PLVN) - "Chúng tôi cũng có thời gian ở cùng phòng. Tôi luôn xem ông Shin là tiền bối. Tôi rất tôn trọng ông ấy. Tôi mong chờ trận đấu ngày mai, khi cả hai cùng ở cương vị huấn luyện trưởng đội tuyển quốc gia và sẽ đối đầu nhau. Tôi sẽ gạt bỏ hết những suy nghĩ cá nhân để tập trung cho trận đấu”, HLV trưởng ĐT Việt Nam nói.

Xiếc 'Đám cưới chuột' sắp 'trình làng'

“Đám cưới chuột” đậm chất lễ hội dân gian qua ngôn ngữ xiếc (Ảnh: BTC)
(PLVN) - Chương trình xiếc tạp kỹ “Đám cưới chuột” được dàn dựng thông qua ngôn ngữ hành động của xiếc với các thể loại: nhào lộn, tung hứng, thăng bằng, ảo thuật… để kể lại một câu chuyện vừa hài hước, hóm hỉnh, vừa mang ý nghĩa giáo dục một cách hấp dẫn, đậm chất lễ hội dân gian.

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể
(PLVN) - Tập quán văn hóa và tín ngưỡng Lễ Cúng rừng của người Mông và Nghệ thuật trình diễn dân gian Khắp Cọi của người Tày ở Yên Bái được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Đưa hát xẩm đến gần hơn với công chúng

Nghệ sĩ Vũ Thùy Linh lựa chọn dân ca nguyên gốc được phối bởi dàn nhạc giao hưởng cho album mới có tên “Tơ đồng thánh thót”. (Ảnh: L.Thủy)
(PLVN) - Mang nét văn hóa, sử dụng chất liệu âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại là cách mà nhiều nghệ sĩ trẻ đang hướng đến. Đây cũng là một trong những đóng góp của các nghệ sĩ cho đời sống âm nhạc, để nền âm nhạc đậm đà bản sắc Việt vươn ra với thế giới.

Phát triển văn hóa song hành cùng phát triển kinh tế: Nhiệm vụ hàng đầu để đất nước khẳng định vị thế và bản sắc

Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: hcma.vn)
(PLVN) -  Đây là một trong những giải pháp được các nhà khoa học đặt ra tại Hội thảo khoa học “Dự báo nhân tố tác động, yêu cầu đặt ra, phương hướng, giải pháp, kiến nghị tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 13/12.

'Gương mặt vặn vẹo' - đối mặt nhiều vụ án ly kỳ, hóc búa

Phim khai thác đề tài tâm lý tội phạm. (Ảnh: BTC)
(PLVN) - Bộ phim xoay quanh hành trình điều tra và truy bắt tội phạm gian nan của “Đội 7”, đối mặt nhiều vụ án ly kỳ, hóc búa. Hình ảnh nhân vật phản diện được xây dựng từ những ám ảnh thời thơ ấu, tổn thương tâm lý cho đến những biến cố không thể lường trước trong cuộc sống. Chính những điều này đã biến họ từ con người bình thường thành những kẻ tội phạm đáng sợ, nhưng cũng khiến người xem ít nhiều hiểu và đồng cảm.

“Vằng vặc trăng quê” - đong đầy hồn quê

"Vằng vặc trăng quê" lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mang đậm “hồn quê” Bắc Bộ (ảnh P.V).
(PLVN) -  Tản văn “Vằng vặc trăng quê” của nhà báo Ngô Bá Lục không chỉ kể chuyện đời thường, đong đầy tình yêu thương mà còn lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, mang đậm “hồn quê” Bắc Bộ.