Câu chuyện về người liên giới tính

Thạc sỹ, bác sỹ Ngô Hải Sơn ( ngoài cùng bên phải) - Bệnh viện Việt Đức, chuyên gia trong tổ tư vấn chuyên môn của Bộ Y tế để xây dựng Luật Chuyển đổi Giới tính từ 2017 tới nay. (Ảnh: PV)
Thạc sỹ, bác sỹ Ngô Hải Sơn ( ngoài cùng bên phải) - Bệnh viện Việt Đức, chuyên gia trong tổ tư vấn chuyên môn của Bộ Y tế để xây dựng Luật Chuyển đổi Giới tính từ 2017 tới nay. (Ảnh: PV)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) vừa tổ chức sự kiện chia sẻ kết quả “Nghiên cứu khám phá về trải nghiệm y tế và xã hội của người liên giới tính tại Việt Nam”. Dù người liên giới tính không hiếm, nhưng trước nhiều định kiến, bệnh nhân ngại tìm kiếm sự trợ giúp y tế và tiết lộ tình trạng của họ…

Thiểu số của thiểu số

An, một người liên giới tính có mặt trong sự kiện chia sẻ về hành trình khám phá bản thân mình: An lớn lên như bao người bình thường khác. Khi bước vào tuổi dậy thì mới bắt đầu có những dấu hiệu khác lạ, khi đi thăm khám thì các bác sĩ không có nhiều thông tin về cái gọi là liên giới tính. Trước khi được chẩn đoán cuối cùng, An đã tự tìm kiếm thông tin câu trả lời nhưng không thấy thông tin về những người như mình trong nghiên cứu hay báo chí. Sau đó, An tìm thấy được một cộng đồng ở nước ngoài trên mạng mang những đặc trưng giống như mình, đồng hành cùng An trên hành trình tìm hiểu và khám phá về bản thân. Về sau, An phải bỏ rất nhiều thời gian để theo đuổi việc chẩn đoán ở bệnh viện.

Theo các chuyên gia, có từ 0.05% đến 1,7% dân số sinh ra với đặc điểm liên giới tính - con số ước tính cao tương đương với số người sinh ra với tóc đỏ. Từ lâu, các thuật ngữ như “lưỡng tính” hoặc “liên giới tính” đã được sử dụng để nhận dạng và miêu tả những cá nhân có đặc điểm giới tính không hoàn toàn khớp với các khái niệm nhị phân điển hình về cơ thể nam hoặc nữ truyền thống. Ở Việt Nam, với các chuẩn mực văn hóa, truyền thống và xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của họ. Các trường hợp liên giới tính vẫn còn thường được gọi bằng cụm từ “lưỡng giới giả nam/nữ” hoặc “không ra nam, không ra nữ”. Tuy những cụm từ này thường mang nhiều định kiến với người có đặc điểm giới tính không phổ biến, đây vẫn là tên gọi và cách nhận dạng người liên giới tính phổ biến nhất tại Việt Nam.

Ở góc độ y tế, liên giới tính không hiếm nhưng lại ít được báo cáo hay ghi nhận ở Việt Nam. Lỗ hổng này một phần là do bệnh nhân ngại tìm kiếm sự trợ giúp y tế và tiết lộ tình trạng của họ. Và một phần là do những khó khăn trong chẩn đoán và điều trị, đặc biệt tại các tỉnh, thành phố nhỏ, nơi mức độ hiểu biết của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe chuyên sâu về các trường hợp rối loạn phát triển giới tính vẫn còn hạn chế.

Thạc sỹ, bác sỹ Ngô Hải Sơn đến từ Bệnh viện Việt Đức, chuyên gia trong tổ tư vấn chuyên môn của Bộ Y tế để xây dựng Luật Chuyển đổi Giới tính từ 2017 tới nay cho biết, tình trạng thiếu thông tin này kéo dài từ khi còn đào tạo ở trường đại học, tới đào tạo chuyên khoa sau này. Chủ yếu do số lượng người liên giới tính tìm đến các cơ sở y tế, đặc biệt các bệnh viện lớn là không nhiều. Những người liên giới tính đến với anh sau khi đã đến rất nhiều bệnh viện khác. Ở đó họ thường không được cung cấp chẩn đoán cụ thể, phác đồ điều trị, nhìn chung có nhiều khó khăn trong việc các bạn tìm kiếm thông tin và địa chỉ uy tín.

Và trong môi trường mà vấn đề giới tính và sự khác biệt vẫn còn nhiều rào cản và hiểu lầm, người liên giới tính thường xuyên phải đối mặt với cảm giác cô lập, không được thấu hiểu và chấp nhận. Tất cả những người liên giới tính tham gia nghiên cứu đều đề cập đến những cảm xúc bối rối, hoang mang, lo lắng và căng thẳng khi phát hiện ra việc mình có các đặc điểm hoặc hội chứng phát triển giới tính không phổ biến. Ngoài ra, với các mối quan hệ gia đình và xã hội, họ cũng chia sẻ rất nhiều ngần ngại và sự cô đơn khi không thể tiết lộ với ai về bản thân mình. Một số người tham gia nghiên cứu chia sẻ rằng họ cảm thấy không thể tiến tới mối quan hệ yêu đương do lo sợ về việc không thể sinh con…

Một phát hiện quan trọng nữa trong nghiên cứu này chính là nhu cầu có một cộng đồng để sẻ chia của người liên giới tính để học hỏi và tham khảo trải nghiệm của những người đã thực hiện phẫu thuật xác định lại giới, hoặc các phẫu thuật có liên quan đến hội chứng của mình để có thể đưa ra các quyết định y tế phù hợp.

Đã đến lúc cần thay đổi?

Thạc sỹ Trần Ngọc Linh - Viện iSEE công bố kết quả nghiên cứu về Người liên giới tính. (Ảnh: PV)

Thạc sỹ Trần Ngọc Linh - Viện iSEE công bố kết quả nghiên cứu về Người liên giới tính. (Ảnh: PV)

Hiện nay, cách tiếp cận phổ biến với các ca trẻ em có đặc điểm giới tính ngoài phổ nhị phân nam nữ là vẫn thực hiện phẫu thuật sớm. Có nhiều lý do được đưa ra, ví dụ như “tránh căng thẳng tâm lý” hoặc “sinh hoạt bình thường”. Tuy nhiên các chuyên gia tham gia nghiên cứu cũng cân nhắc việc thực hiện phẫu thuật khi không cần thiết có thể sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến sức khỏe sau khi trưởng thành, đồng thời yêu cầu phải có sự theo dõi chặt chẽ để giảm thiểu rủi ro. Vậy nên nếu không đặc biệt cần thiết, hoàn toàn có thể chờ đến khi đứa trẻ có đủ nhận thức và quyền để quyết định để thực hiện can thiệp xác định giới tính.

Với kinh nghiệm làm việc với hai nhóm liên giới tính là nhóm còn nhỏ và nhóm đã trưởng thành, bác sĩ Ngô Hải Sơn cho biết, với nhóm các bạn còn nhỏ, quá trình tư vấn đặt ra nhiều mối quan tâm liên quan tới đạo đức, khi có khả năng đứa trẻ sau này lớn lên có cảm thấy khó chịu với việc bố mẹ quyết định về cơ thể mình.

Bác sĩ Sơn chia sẻ thêm: “Mỗi năm ước tính có khoảng 2500 trẻ liên giới tính, và trải dài khắp cả nước, nên các mối quan tâm của các bác sĩ với chủ đề này là rất ít, nhiều bệnh viện lớn vài năm mới gặp một ca”. Việc thiếu hụt sự quan tâm, thông tin, và cơ sở vật chất khiến cho quá trình chẩn đoán và đưa ra phác đồ thăm khám, điều trị cho người liên giới tính thường mất rất nhiều thời gian và chi phí. Có thể kéo dài nhiều năm và gây ra những áp lực, tổn thương về thể chất và tinh thần không đáng có. Hơn thế, các trường hợp chẩn đoán sai lệch hoặc do thiếu thông tin cũng có thể sẽ gây ra những hệ quả lâu dài.

Đối với nhóm lớn hơn, bác sĩ cũng tư vấn và đưa ra khuyến nghị, ví dụ về việc dùng hoóc môn. Nhưng chỉ là tư vấn chứ không bắt buộc, và tư vấn đó phải dựa trên bằng chứng khoa học, phải tìm cách giảm thiểu khả năng gây ra sự nuối tiếc.

Là người trong cuộc, An chia sẻ thêm: Sau khi đã có chẩn đoán cụ thể, bác sĩ có đưa ra lời khuyên là thực hiện cuộc phẫu thuật. Lúc đó An rất băn khoăn không biết có thực hiện hay không, vì bác sĩ vốn dĩ là người “biết mình nên làm gì”. Khi kết nối với nhóm những người mang đặc trưng cơ thể giống mình, An thấy nhiều người liên giới tính đã lớn tuổi rồi nhưng vẫn sống khỏe mặc dù không tiến hành phẫu thuật, sau đó An đã đưa ra quyết định là không phẫu thuật. “ Đối với em vai trò của cộng đồng ở thời điểm đó cực kỳ quan trọng, trong việc đồng hành kể cả cảm xúc lẫn thông tin. Khi đó nếu không có cộng đồng ở đó thì bây giờ rất là khác rồi, thực hiện phẫu thuật cơ quan sinh dục bên trong thì ảnh hưởng về lâu về dài”…

Câu chuyện của An là một ví dụ về sự cần thiết và quan trọng của việc hỗ trợ tinh thần và tìm kiếm sự thấu cảm của người liên giới tính ở Việt Nam. Bác sỹ Sơn cũng chia sẻ quan điểm tương tự khi nói về quá trình kết nối của mình với các bạn là người liên giới tính: “Bản thân mình cũng tự tạo một nhóm những bạn liên giới tính tới tham vấn mình. Mình có thể hỗ trợ các bạn về mặt y tế nhưng về mặt đời sống thì để các bạn hỗ trợ giúp đỡ nhau thì sẽ tốt hơn”…

Theo bác sỹ Sơn, do thiếu thông tin kéo dài từ khi còn đào tạo ở trường đại học, tới đào tạo chuyên khoa sau này. Các quyển sách dày đặc chữ với hơn 40 đặc điểm giới tính không điển hình vô cùng phức tạp, khiến cho việc có các thuật ngữ chuẩn xác trở nên khó khăn hơn. Khái niệm “người liên giới tính” vẫn còn khá mới, và việc bị chi phối của tư tưởng nhị nguyên vẫn còn nặng, được thể hiện qua các thuật ngữ vẫn thường được dùng phổ biến ở các cơ sở y tế như “rối loạn phát triển giới tính” hay “nam giới giả nữ, nữ giới giả nam”…

Do đó, một trong những nỗ lực nâng cao nhận thức xã hội về người liên giới tính là vấn đề giáo dục giới tính. Khi mà các bài giảng giáo dục giới tính trong nhà trường còn sơ khai, chưa đưa ra các thông tin và sự hiểu thấu về người liên giới tính. Học sinh sẽ thường tự tìm hiểu nhiều hơn là được dạy trong các bài giảng ở trường. Theo bác sĩ Sơn, cần có những buổi tập huấn, hoặc các tài liệu cung cấp thông tin trong quá trình xây dựng bài giảng, cho những bên liên quan.

Bởi thế, hệ thống y tế, cần có đầy đủ các thông tin và hiểu biết đúng và sâu rộng về người liên giới tính sẽ có tác động trực tiếp tới việc tư vấn và hỗ trợ thăm khám, điều trị cho những người liên giới tính có nhu cầu. Tuy nhiên, bác sĩ Sơn cũng chia sẻ về khó khăn trong việc tiếp cận tới nhận thức của các nhân viên y tế: “Mình nghĩ cách dễ dàng hơn là mình nâng cao nhận thức của cộng đồng trước, thúc đẩy sự hiện diện và để mọi người thấy người liên giới tính chỉ là một điều bình thường thôi. Khi cộng đồng có nhận thức rõ ràng về người liên giới tính, thì bản thân các y bác sĩ cũng nâng cao nhận thức để thích ứng với sự thay đổi của cộng đồng”.

Bác sĩ Sơn cũng luôn ấp ủ dự định về một phòng khám riêng, thân thiện và phi lợi nhuận, cho những bạn liên giới tính có thể tới thăm khám.

It’s T Time - Tổ chức cộng đồng hoạt động vì quyền và lợi ích của người chuyển giới, đa dạng giới, Quốc Anh chia sẻ về những nỗ lực đồng hành của It’s T Time trong việc hỗ trợ tư vấn pháp lý cho những bạn là người liên giới tính chuyển giới. It’s T Time mong muốn có sự tham gia của đại diện nhóm người liên giới tính trong các những cuộc thảo luận về việc xây dựng những dự thảo luật, khung pháp lý trong thời gian tương lai. Đồng thời có thể hỗ trợ kết nối mọi người tới mạng lưới tham vấn của các chuyên gia quốc tế về liên giới tính hay tới mạng lưới các y bác sĩ ở Việt Nam thân thiện và cởi mở với các vấn đề của cộng đồng đã từng làm việc cùng với It’s T Time.

Thạc sỹ Trần Ngọc Linh - Viện iSEE mong rằng, dự án nghiên cứu này sẽ là một trong những chỉ mốc mở đầu cho việc lan rộng sự hiểu và lắng nghe tiếng nói và các mưu cầu của người liên giới tính tại Việt Nam.

Tin cùng chuyên mục

Đã có một số mạng xã hội yêu cầu người dùng xác thực tài khoản bằng căn cước công dân/chứng minh nhân dân. (Ảnh: Duyên Phan)

Người dùng mạng bắt buộc xác thực thông tin cá nhân: Liệu có rủi ro?

(PLVN) - Từ ngày 25/12/2024, người dùng mạng xã hội sẽ bắt buộc phải xác thực tài khoản bằng số điện thoại hoặc mã số định danh. Đây được đánh giá là bước tiến quan trọng trong việc tăng cường quản lý không gian mạng và bảo vệ người dùng. Tuy nhiên, quy định này cũng đặt ra những lo ngại, bao gồm nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân và việc làm giảm khả năng tiếp cận mạng xã hội của một số đối tượng.

Đọc thêm

Bảo vệ trẻ em trước “bóng ma xâm hại” trêm không gian mạng

Trẻ em dễ trở thành đối tượng bị bạo lực và lạm dụng tình dục trên mạng. (Ảnh: Getty)
(PLVN) - Năm 2016, “Thử thách cá voi xanh” (Blue Whale Challenge) từng là hiện tượng mạng nhanh chóng lan rộng ra khắp các nền tảng phổ biến khác trên toàn thế giới như Facebook, Instagram, Snapchat… Khi tham gia “Thử thách cá voi xanh”, trong vòng 50 ngày, người chơi sẽ phải làm theo những nhiệm vụ mà những “người quản lý” đưa ra, với mức độ từ dễ đến khó theo thời gian, cao nhất là tự sát. Đa số những người quản lý và người chơi đều ở độ tuổi đang đi học và đã có rất nhiều đứa trẻ đã chết khi tham gia “Thử thách cá voi xanh”…

Những bài học đau xót vì “anh hùng bàn phím”

Một trong những đối tượng bị tổn thương nhiều nhất do lực lượng “anh hùng bàn phím” trên mạng chính là các em thiếu niên. (Nguồn: TL)
(PLVN) - Trong thời đại số hóa, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Tuy nhiên, mặt trái của không gian ảo đang lộ rõ qua vấn nạn bạo lực mạng. Những lời chỉ trích, mỉa mai, hay công kích vô căn cứ từ những “anh hùng bàn phím” không chỉ gây tổn thương mà còn để lại những hậu quả khủng khiếp đối với tâm lý, tinh thần và sức khỏe của nạn nhân, đặc biệt là các bạn trẻ.

Chữa lành tổn thương từ “không gian ảo”

Cần phải tách bản thân ra khỏi “thế giới ảo”, gần gũi với thiên nhiên, cuộc sống thực để chữa bệnh do mạng xã hội gây ra. (Ảnh minh họa - Nguồn: Trekking-Camping)
(PLVN) - Theo thống kê, có khoảng 73% người Việt Nam sử dụng Internet. Trong đó, có rất nhiều người thường xuyên dùng các tài khoản mạng xã hội. Đây là một không gian tiện lợi để mọi người trò chuyện, kết nối, nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro. Trong đó, không ít cá nhân đã bị tổn thương tâm lý từ cộng đồng “ảo” trên mạng xã hội.

Khởi công Đường cao tốc TP HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành

Khởi công Đường cao tốc TP HCM - Thủ Dầu Một - Chơn Thành
(PLVN) - Ngày 14/12, tại tỉnh Bình Phước diễn ra Lễ động thổ khởi công công trình Đường cao tốc TP HCM -Thủ Dầu Một - Chơn Thành, đoạn qua tỉnh Bình Phước và công bố giai đoạn 2 Khu công nghiệp Becamex Bình Phước, đồng thời khánh thành giai đoạn 1 nhà máy sản xuất lốp ô tô của Công ty TNHH HAOHUA (Việt Nam). Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà dự các sự kiện.

Công đoàn Việt Nam: Phấn đấu thực hiện tốt chủ trương của Đảng về tinh gọn tổ chức bộ máy

Công đoàn Việt Nam: Phấn đấu thực hiện tốt chủ trương của Đảng về tinh gọn tổ chức bộ máy
(PLVN) - Tại Hội nghị Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam lần thứ 6 (Khoá XIII) diễn ra sáng 13/12, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng thi đua khen thưởng Trung ương, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Nguyễn Đình Khang đã phát động phong trào thi đua yêu nước tới các cấp Công đoàn, đoàn viên và công nhân, viên chức, lao động cả nước.

Dấu hiệu giúp phụ huynh nhận biết con đang sử dụng thuốc lá điện tử

Việc hút thuốc lá ở độ tuổi thanh thiếu niên gây ra nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tâm thần.
(PLVN) - Thuốc lá điện tử ngày càng trở nên phổ biến trong giới trẻ với hình thức hiện đại và hương vị đa dạng. Tuy nhiên, đằng sau vẻ ngoài “ vô hại ” ấy lại là hàng loạt nguy cơ đối với sức khỏe thể chất và tâm thần. Ths. Bác sĩ Nguyễn Thành Long, chuyên gia tại Viện Sức khỏe Tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai) đưa ra những cảnh báo và biểu hiện giúp các bậc phụ huynh nhận biết và ngăn chặn kịp thời việc con em mình sử dụng loại sản phẩm nguy hiểm này.

Hà Nội thí điểm thực hiện vùng phát thải thấp: Giảm ô nhiễm không khí mang đến nhiều lợi ích

Quận Hoàn Kiếm dự kiến chọn khu vực không gian đi bộ hồ Gươm và vùng phụ cận, khu vực phố cổ để thí điểm vùng LEZ. (Ảnh minh họa: PV)
(PLVN) - Ngày 12/12, tại Kỳ họp thứ 20, HĐND TP Hà Nội khóa XVI, HĐND TP Hà Nội đã thông qua Nghị quyết Quy định thực hiện vùng phát thải thấp (LEZ) trên địa bàn TP Hà Nội. Theo đó, từ năm 2025 đến năm 2030 sẽ thí điểm lập vùng phát thải thấp ở một khu vực trên địa bàn quận Hoàn Kiếm và Ba Đình.

Cần đẩy mạnh công tác phòng, chống lao trong trại giam

Ảnh minh họa: Ngọc Nga
(PLVN) - Tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh lao của phạm nhân trong các trại giam của nước ta vẫn cao, nhận thức của phạm nhân về bệnh lao, đặc biệt là lao/HIV, lao đa kháng thuốc còn hạn chế nên nguy cơ lây nhiễm trong môi trường này rất lớn...

Bãi biển đẹp nhất Quảng Ngãi bị sạt lở, uy hiếp đường giao thông

Bãi biển đẹp nhất Quảng Ngãi bị sạt lở, uy hiếp đường giao thông
(PLVN) - Bờ biển Mỹ Khê (xã Tịnh Khê, TP Quảng Ngãi) được xem là bãi biển đẹp nhất tỉnh nhưng đang bị nước biển xâm thực, sạt lở nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sản xuất của người dân. Sạt lở bờ biển cũng uy hiếp các công trình hạ tầng đường giao thông, dầu khí, đồn biên phòng…