Xuất phát từ nguyên tắc TGPL được thực hiện cho những người không có khả năng tài chính thuê luật sư và nhằm bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật, đồng thời tiếp tục thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo, người có công với cách mạng, dân tộc và chính sách an sinh khác, quy định về người được TGPL trong Luật này được thiết kế theo hướng kế thừa quy định người được TGPL từ Luật TGPL năm 2006. Những người này bao gồm: Người thuộc hộ nghèo; người có công với cách mạng; người dân tộc thiểu số thường trú tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người cao tuổi, trẻ em và người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn về tài chính.
Ngoài ra, Dự thảo luật đề nghị bổ sung các đối tượng được TGPL: nạn nhân trong vụ việc mua bán người có hoàn cảnh khó khăn về tài chính; trẻ em bị buộc tội; người nhiễm HIV có hoàn cảnh khó khăn về tài chính bị buộc tội; Người thuộc hộ cận nghèo bị buộc tội; nạn nhân trong vụ việc bạo lực trên cơ sở giới có hoàn cảnh khó khăn về tài chính.
Theo Ban soạn thảo: Việc lựa chọn những người được TGPL quy định Dự thảo luật này đã có sự cân nhắc kỹ bảo đảm phù hợp với bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở cân đối nguồn lực về con người và ngân sách, nhằm mục tiêu TGPL được cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý, bảo đảm tính khả thi của pháp luật khi được ban hành.
Chính phủ sẽ có quy định cụ thể về người có “hoàn cảnh khó khăn về tài chính” tại Nghị định cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Thẩm tra dự luật, Ủy ban Pháp luật của QH nhận định: Đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật tán thành với quan điểm mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý được nêu trong Tờ trình của Chính phủ, nhưng còn băn khoăn khi đối chiếu với dự thảo Luật thì diện người được trợ giúp pháp lý lại thu hẹp hơn so với quy định của các luật hiện hành.
Dự thảo Luật không thu hút tất cả những người được trợ giúp pháp lý đang được quy định trong Luật người khuyết tật, Luật phòng, chống mua bán người và Luật trẻ em mà chỉ quy định lựa chọn những người “có hoàn cảnh khó khăn về tài chính” hoặc “trẻ em bị buộc tội” mới thuộc diện được trợ giúp pháp lý.
Đồng thời, dự thảo Luật cũng không luật hóa tất cả những người đang được trợ giúp pháp lý quy định tại các văn bản dưới luật như Nghị định số 14/2013/NĐ-CP (người bị nhiễm chất độc hóa học) và Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BLĐTBXH (người tham gia tố tụng hình sự là người chưa thành niên, bao gồm cả người bị hại, người làm chứng là trẻ em và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi).
Việc thu hẹp người thuộc diện được trợ giúp pháp lý so với quy định hiện hành như trên dẫn đến một số đối tượng trong cùng một nhóm người yếu thế không được hưởng chính sách trợ giúp pháp lý, tạo nên sự thiếu nhất quán trong chính sách xã hội của Nhà nước và có thể gây ra những tác động tiêu cực trong xã hội.
Một số ý kiến khác nhất trí nội dung này của dự thảo Luật, vì cho rằng quy định như vậy là phù hợp với khả năng bố trí nguồn lực của nước ta hiện nay. Nếu không giới hạn diện những người được trợ giúp pháp lý thì sẽ dẫn đến việc tăng chi ngân sách, khó bảo đảm tính khả thi của Luật.
Để có cơ sở cho việc quy định cụ thể về phạm vi những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, Ủy ban Pháp luật đề nghị Chính phủ giải trình rõ số lượng những người được trợ giúp pháp lý, nguồn lực thực hiện trong thời gian qua; đồng thời, đánh giá thực chất về nhu cầu, dự kiến nguồn lực, tính toán kỹ các phương án để đưa ra số liệu chính xác về số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý và chi phí trong trường hợp mở rộng hoặc thu hẹp diện người được trợ giúp pháp lý. Nếu vì lý do thiếu nguồn lực tài chính mà thu hẹp trợ giúp pháp lý đối với diện những người mà theo quy định hiện hành đang được hưởng thì cần báo cáo rõ với Quốc hội và đề xuất bổ sung nguồn lực để bảo đảm thực hiện trên thực tế; hoặc đề xuất phương án sửa đổi các luật có liên quan để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật./.