Từ đó, việc đầu tư các công trình, dự án xây dựng các khu đô thị mới, khu nhà ở có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các dự án cải tạo, chỉnh trang đô thị gắn với phát triển các dự án nhà ở tại các đô thị hiện hữu, góp phần cải thiện bộ mặt đô thị chung của tỉnh, nâng cao chất lượng đời sống người dân, tạo động lực thu hút đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội.
Tiên phong trong xây dựng thành phố thông minh
Năm 2015, ngay đầu nhiệm kỳ, tỉnh Bình Dương đã xác định triển khai đề án thành phố thông minh như một chương trình đột phá hướng đến dịch vụ, sản xuất công nghệ cao, đô thị xanh sạch đáng sống, tạo tiền đề vươn đến kinh tế tri thức, kinh tế số. Ngay sau đó, đề án thành phố thông minh nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng, đón làn sóng công nghiệp 4.0 được hình thành và nhanh chóng lan tỏa, bước đầu đạt được những thành tích đáng ghi nhận.
Đến nay, việc triển khai đề án từng bước hình thành khung nền của mô hình 3 nhà (Nhà nước - Nhà doanh nghiệp - Nhà trường); phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ và khởi nghiệp; hệ sinh thái khởi nghiệp bắt đầu được hình thành và hoạt động với các dự án Vườn ươm doanh nghiệp, Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Nhìn chung, đề án đạt được những thành tựu và đóng góp nhiều ý tưởng có giá trị, thiết thực; là nền tảng để triển khai nhiều chương trình, dự án cụ thể; đóng góp mạnh mẽ vào quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là những bứt phá trong hội nhập, mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút đối tác đầu tư, từng bước khẳng định vị thế của tỉnh trên trường quốc tế.
Nhiệm kỳ qua, Bình Dương ghi nhận một loạt địa phương hoàn thành mục tiêu nâng tầm đô thị. Trong đó, năm 2017, Đô thị Thủ Dầu Một nâng từ loại II lên loại I; Thị xã Thuận An và Dĩ An nâng từ loại III lên loại II, tháng 2/2020; đô thị Bến Cát và Tân Uyên nâng từ loại IV lên loại III, năm 2018; 3 Trung tâm huyện phía Bắc đã được công nhận đạt tiêu chí đô thị loại V gồm: thị trấn Lai Uyên, thuộc huyện Bàu Bàng; thị trấn Tân Thành, thị trấn Tân Bình thuộc huyện Bắc Tân Uyên. Đến nay, tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 82%.
Những bước tiến nói trên là kết quả của quá trình đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Trong đó, tiềm lực khoa học và công nghệ được đầu tư phát triển và được ứng dụng cụ thể, rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn đời sống, nhất là trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Chất lượng các dịch vụ kỹ thuật đáp ứng nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp và người dân. Trên địa bàn tỉnh xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số kết hợp và hỗ trợ hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Song song đó, hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin phát triển mạnh, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cấp, các ngành được đầu tư và có nhiều chuyển biến tích cực. Nguồn nhân lực phục vụ công nghệ thông tin được đầu tư, phát triển tốt, từng bước đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước phát triển hơn, kết nối liên thông, cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Công tác thông tin, tuyên truyền phản ánh kịp thời diễn biến trong đời sống chính trị, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Việc đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin đã hỗ trợ tích cực trong lộ trình hướng đến việc xây dựng thành phố thông minh.
Đến nay, Bình Dương được công nhận là thành viên Hiệp hội Đô thị khoa học thế giới (WTA) và Diễn đàn Cộng đồng thông minh thế giới (ICF); đồng thời được bình chọn là 1 trong 21 thành phố, khu vực có chiến lược phát triển thành phố thông minh tiêu biểu của thế giới trong năm 2019 và năm 2020.
Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore, một điển hình của phát triển công nghiệp xanh, sạch, giàu chất xám. |
Tiếp tục xây dựng đô thị đáng sống
Phát huy và nâng cao kết quả xây dựng thành phố thông minh trong nhiệm kỳ qua, giai đoạn 2021 - 2025, trọng tâm của tỉnh Bình Dương là vùng đổi mới sáng tạo, tạo tiền đề phát triển kinh tế số, nâng cao giá trị gia tăng và quy mô kinh tế, đáp ứng mục tiêu trở thành đô thị thông minh vào năm 2045.
Qua các số liệu về chỉ tiêu kinh tế (Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 9,35%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt 155,7 triệu đồng vào năm 2020; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng trung bình 9,64%/năm; thu ngân sách tăng 11,2%/năm…) cho thấy rất nhiều chỉ tiêu đạt và vượt so với Nghị quyết nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra.
Bên cạnh đó, thu hút đầu tư nước ngoài đạt 11,51 tỷ đô la Mỹ. Các khu công nghiệp không ngừng hoàn thiện, nâng cấp, mở rộng kết nối và gắn liền với bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, toàn tỉnh có 29 khu công nghiệp với tổng diện tích 12.721 ha, tỷ lệ cho thuê đất đạt 84,4% và 12 cụm công nghiệp với tổng diện tích 789,91 ha, tỷ lệ cho thuê đất đạt 67,4%. Tỷ lệ lấp đầy cao vào bậc nhất so với khu vực.
Trong tương lai, Bình Dương sẽ đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch; rà soát quy hoạch các cụm công nghiệp hiện có và phát triển một số cụm công nghiệp mới, trong đó, ưu tiên diện tích đất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tiếp tục phát triển các khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị; các khu dân cư đô thị phức hợp chất lượng cao; xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân đáp ứng yêu cầu đô thị hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; tăng cường công tác quản lý dân cư trong các khu chung cư trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để các nhà đầu tư sớm triển khai thực hiện dự án, tạo hiệu ứng lan tỏa, có tác động tích cực tới việc thu hút các nhà đầu tư mới vào những lĩnh vực, địa bàn ưu tiên, nhất là đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề… đảm bảo phát triển bền vững và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong tỉnh.
Mục tiêu dài hạn của tỉnh là phấn đấu trở thành địa phương có sức cạnh tranh toàn cầu về thu hút, đào tạo, phát triển và giữ chân nhân tài khoa học kỹ thuật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng trưởng kinh tế. Với máy móc thiết bị có sẵn, sử dụng chung giữa viện, trường và doanh nghiệp để tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên thực hành, khởi nghiệp, cũng như các doanh nghiệp có điều kiện để phát triển các ý tưởng.
Với những quyết tâm chính trị trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ tỉnh Bình Dương tập trung thực hiện đạt mục tiêu: “Tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền; đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và thực hiện các đột phá chiến lược; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; phấn đấu xây dựng tỉnh Bình Dương phát triển bền vững theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại; đến năm 2030, Bình Dương trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại, đến năm 2045 là đô thị thông minh của vùng và cả nước”.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 - 2025
Chỉ tiêu kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 8,5 - 8,7%/năm. Cơ cấu kinh tế với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 90%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng trên 8,7%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt từ 14 - 15%/năm. GRDP bình quân đầu người đạt 210 - 215 triệu đồng vào năm 2025. Thu ngân sách tăng 8%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 33-34% GRDP. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt trên 9 tỷ đô la Mỹ.
Chỉ tiêu xã hội: Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 85% năm 2025. Tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân đạt 10 bác sĩ; số giường bệnh/1 vạn dân đạt 27 giường (không tính tuyến xã). Tỷ lệ hộ nghèo thuộc chỉ tiêu giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới dưới 2,5%. Diện tích nhà ở bình quân đạt 31,5m2/người.
Chỉ tiêu về phát triển đô thị: Tỷ lệ lượng thông tin cung cấp công khai cho người dân có cơ chế phản hồi thông tin đạt 70%. Tỷ lệ bến đỗ, nhà ga có cung cấp thông tin giao thông theo thời gian thực đạt 50%. Tỷ lệ dân cư có bệnh án điện tử đạt 50%; 100% các cơ sở y tế cấp tỉnh, cấp huyện cho phép đăng ký khám chữa bệnh thông qua các ứng dụng ICT; 70% các điểm công cộng được lắp đặt hệ thống giám sát an ninh; 100% các sở ngành xây dựng danh mục tài nguyên thông tin và thực hiện chia sẻ.