Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải nộp thuế GTGT dựa trên “giá bán bất động sản chưa thuế trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước”.
Tại tờ trình Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và Luật thuế tài nguyên, cơ quan soạn thảo đưa ra lý do chính để đánh thuế GTGT đối với chuyển quyền sử dụng đất là vì “khó khăn do không có cơ sở hoặc không xác định được thế nào là giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách”.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp phản ánh với VCCI rằng, việc tính toán giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất của họ không có gì khó khăn. Kể cả khi có vướng mắc trong xác định giá tính thuế đi chăng nữa thì cũng có thể được tháo gỡ thông qua việc hướng dẫn chi tiết cách tính, hoặc ấn định một cách tính giá chuyển quyền sử dụng đất khi tính thuế. Khó khăn trong việc xác định giá trị được trừ khi tính thuế không thể là lý do để không cho phép trừ phần giá trị đó.
Theo Điều 3 của Luật Thương mại, đất đai hay quyền sử dụng đất không phải là hàng hoá, dịch vụ. Điều 2 của Luật Thuế giá trị gia tăng đây là loại thuế “tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.” Do đó, việc đánh thuế GTGT đối với chuyển quyền sử dụng đất sẽ không phù hợp với bản chất của loại thuế này.
Việc đánh thuế GTGT đối với chuyển quyền sử dụng đất đặt ra câu hỏi về người nộp thuế. Liệu người nộp thuế chỉ là các tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản, hay bao gồm cả những tổ chức, cá nhân mua bán bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên, tức là không kinh doanh?
Theo phân tích của VCCI, nếu chỉ những tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải nộp khoản thuế này thì sẽ gây ra sự bất bình đẳng về thuế khi mà những tổ chức, cá nhân khác không phải nộp. Hơn nữa, nó sẽ càng làm gia tăng những nhà đầu tư cá nhân mặc dù không đăng ký kinh doanh bất động sản nhưng vẫn mua đi bán lại bất động sản nhằm mục đích thu lợi.
Ngược lại, nếu yêu cầu cả những tổ chức, cá nhân mua bán bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên (không kinh doanh) cũng phải nộp thuế GTGT thì sẽ gây những khó khăn lớn về việc lưu giữ hoá đơn, khấu trừ thuế, hoàn thuế do thời điểm mua và thời điểm bán bất động sản có thể cách nhau nhiều năm.
Việc đánh thuế GTGT đối với chuyển quyền sử dụng đất còn có thể gây nhiều tác động lớn như làm tăng giá đất đai, ảnh hưởng đến quyền tiếp cận mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quyền tiếp cận chỗ ở của người dân.
Vì thế, cộng đồng doanh nghiệp đề xuất vẫn duy trì quy định chuyển quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT như Luật Thuế GTGT hiện hành.