Hướng hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, tuân thủ pháp luật
Năm 2014, vấn đề công nghiệp văn hóa được chính thức đề cập trong Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị. Đây là bước tiến mới trong nhận thức lý luận và thực tiễn. Với quan điểm mới này, giá trị, bản sắc văn hoá không chỉ là tài nguyên vô giá, tạo ra doanh thu, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, mà còn củng cố “sức mạnh mềm” giúp nâng cao thương hiệu vùng miền, quốc gia.
Phát biểu Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Phải tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; đồng thời nhấn mạnh tư tưởng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong xây dựng văn hóa phải lấy xây dựng, phát triển con người có nhân cách, đạo đức, có lối sống tốt đẹp làm trọng tâm; xây dựng môi trường văn hóa (gia đình, cộng đồng và xã hội) lành mạnh làm cốt lõi.
… Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đây là khâu trọng tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Hướng các hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội. Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khuyến khích, nâng đỡ, nhân rộng cái đúng, cái tốt, cái tích cực; bảo vệ các giá trị nhân văn trong đời sống xã hội. Đấu tranh đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu; chống các quan điểm sai trái gây ảnh hưởng xấu đến xây dựng văn hóa và ổn định xã hội…”.
Có thể thấy, trong bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tới yếu tố “con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam”. Do đó, việc “hướng các hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách” là điều rất cần thiết. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”…
Nội lực pháp luật để phát triển văn hóa
Trong công cuộc xây dựng thương hiệu quốc gia, ngành Văn hóa đóng vai trò then chốt - là quan điểm của GS.TS. Từ Thị Loan - Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam trong bài viết “Xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa”. Theo GS.TS. Từ Thị Loan ngay từ năm 2003, Việt Nam đã khởi xướng "Chương trình thương hiệu quốc gia" với mục tiêu xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ với chất lượng cao, gia tăng niềm tự hào và sức hấp dẫn của đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển ngoại thương và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong công cuộc xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam này, ngành Văn hóa đóng vai trò then chốt, bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước. Ở nghĩa rộng, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia, văn hóa là nhân tố chi phối, quyết định chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản trị, thương mại… Ở nghĩa hẹp, các thành tố của văn hóa như: di sản, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc, điện ảnh, thời trang...
Việc tuân thủ pháp luật giúp các tổ chức, cá nhân đảm bảo chữ tín, đạo đức kinh doanh, đạo đức làm nghề, trách nhiệm xã hội… để từ đó gia tăng niềm tự hào và sức hấp dẫn của đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển ngoại thương và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Văn hóa cũng là “sức mạnh mềm” trong các quan hệ đối ngoại; là nguồn tài nguyên nhân văn vô tận phục vụ cho các hoạt động sáng tạo; là nền tảng trong các hoạt động giáo dục, khoa học, công nghệ, là hệ thống các giá trị dẫn dắt, điều tiết, định hướng xã hội hướng tới những mục tiêu nhân văn tốt đẹp…
Từ quan điểm của GS.TS. Từ Thị Loan có thể thấy ngành Văn hóa đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa, bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Và để tạo chuyển biến trong thực hiện nếp sống văn hóa cộng đồng thì giải pháp hữu hiệu nhất là tuân thủ pháp luật để biến văn hóa thực sự trở thành “sức mạnh mềm” của dân tộc.
Mặt khác, trong xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa, việc phát huy sức mạnh từ di sản văn hóa cha ông để lại là vô cùng quan trọng. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển chính là chìa khóa, tạo nên “sức mạnh mềm” của văn hóa.
Hiện nay, thực tiễn thi hành pháp luật về di sản văn hóa đã và đang cho thấy nhiều bất cập đòi hỏi cần sớm có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời, nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng về bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất; đẩy mạnh phân công, phân cấp và xã hội hóa công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển, giữa các vấn đề liên quan tới quyền văn hóa, quyền con người vì mục tiêu phát triển bền vững.
Ngày 12/12/2022, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh ký ban hành Nghị quyết 159/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 11 năm 2022. Trong đó, Chính phủ cho ý kiến về đề nghị xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Theo đó, Chính phủ yêu cầu Bộ VH,TT&DL tổng kết kỹ lưỡng việc thực hiện Luật Di sản văn hóa hiện hành, đánh giá cụ thể những vướng mắc, bất cập, nguyên nhân chủ quan, khách quan và cơ sở thực tiễn của các quy định cần sửa đổi, xác định rõ phạm vi điều chỉnh cần bao quát của dự án Luật, tránh khoảng trống pháp lý bảo đảm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp về quyền "hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa".
Bộ VH,TT&DL chỉ đạo nghiên cứu cơ chế đầu tư phù hợp để khuyến khích đầu tư tư nhân hoặc đầu tư theo hình thức đối tác công - tư tham gia vào quá trình bảo tồn, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội của các giá trị di sản văn hóa một cách bền vững; đánh giá tác động rõ hơn về sự cần thiết của việc xây dựng "bảo tàng số", làm rõ phương thức đầu tư cho bảo tàng là từ nguồn vốn thực hiện từ ngân sách Nhà nước hoặc thực hiện xã hội hóa…
Lộ trình xây dựng “sức mạnh mềm” văn hóa Việt Nam
“Muốn văn hóa Việt Nam thực sự trở thành “sức mạnh mềm” của đất nước, tôi cho rằng, cần phải xác lập được lộ trình xây dựng “sức mạnh mềm” văn hóa Việt Nam. Chúng ta cần chuyển hóa được nguồn di sản văn hóa vô cùng dồi dào, phong phú của đất nước, những giá trị văn hóa tốt đẹp thành các sản phẩm, dịch vụ văn hóa có khả năng hấp dẫn, thu hút thế giới đến với Việt Nam thông qua du lịch văn hóa, thông qua truyền thông quảng bá, giao lưu văn hóa, xúc tiến thương mại văn hóa để đó từng bước định hình hình ảnh quốc gia, văn hóa, con người Việt Nam một cách tích cực trong quan hệ quốc tế.
Việt Nam cũng cần hướng tới việc xây dựng một chiến lược tổng thể về phát huy “sức mạnh mềm” văn hóa với các cấp độ mục tiêu. Trước hết, ở cấp độ mục tiêu khái quát, xây dựng cơ chế chuyển hóa nguồn tài nguyên mềm văn hóa thành “sức mạnh mềm” văn hóa Việt Nam nhằm: Thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ chủ quyền văn hóa; Xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia; Gia tăng sức hấp dẫn văn hóa; Thu hút thế giới đến với Việt Nam; Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới; Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia của các ngành công nghiệp văn hóa; Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, vị thế quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ hai, ở cấp độ cụ thể hơn, chiến lược chia các mục tiêu dài hạn này thành các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn nhằm từng bước đưa tới thành công cuối cùng. Theo đó, Việt Nam cần phải bắt đầu với sự tính toán rõ ràng về các nguồn lực tài nguyên mềm văn hóa có sẵn và hiểu biết về chúng ở các cấp độ ưu tiên khác nhau tùy thuộc vào tình hình thực tiễn, từ đó đi đến quyết định lựa chọn nguồn lực nào vào các kênh truyền dẫn ra sao cho phù hợp nhằm tạo nên sự chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” văn hóa của Việt Nam trong tầm nhìn ngắn hạn, hoặc dài hạn” – Trích bài phỏng vấn Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL Nguyễn Văn Hùng trả lời báo Pháp luật Việt Nam tháng 7/2022.