Vụ một thửa đất 2 giấy bán viết tay tại phường Lào Cai (kỳ 3): “Mấu chốt” của vấn đề nảy sinh từ việc công chứng?

Vụ một thửa đất 2 giấy bán viết tay tại phường Lào Cai (kỳ 3): “Mấu chốt” của vấn đề nảy sinh từ việc công chứng?
Bà Đỗ Thị Hạt (bên trái) cho biết đã gửi “Đơn tố giác tội phạm” đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lào Cai trong vụ việc một thửa đất có tới 2 giấy bán viết tay.

Thông tin diễn biến tiếp theo về vụ việc “Một thửa đất có tới 2 giấy bán viết tay dẫn đến tranh chấp phức tạp, kéo dài tại tỉnh Lào Cai”, bà Đỗ Thị Hạt (trú tại Tổ 3 Duyên Hải) tiếp tục có ý kiến kiến nghị tới Báo Pháp luật Việt Nam đề nghị làm rõ những nội dung liên quan đến quy trình, trình tự và thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện tích 1.379m2 (vị trí đất tại xã Đồng Tuyển cũ, nay là xã Cốc San, tỉnh Lào Cai).

Công chứng không bản gốc, bản gốc thì có dấu hiệu bị làm giả?

Như đã thông tin cụ thể vụ việc tranh chấp quyền sử dụng 1.379m2 trước đó tại kỳ 2 “Nhiều điểm mờ cần cơ quan điều tra làm sáng tỏ”. Trong đó có nêu vào ngày 30/6/2020, bà Trương Thị Thanh mang hồ sơ của thửa đất 1.379m2 đến văn phòng Công chứng (địa chỉ: Số 51 Lý Đạo Thành, phường Lào Cai, tỉnh Lào Cai) để chứng thực.

Theo “Biên bản lấy lời khai của đương sự” ngày 24/12/2021, công chứng viên Nguyễn Anh Liễu vẫn khẳng định việc tiếp nhận các giấy tờ là đúng và đều là bản gốc.


“…các giấy tờ tuỳ thân và giấy chứng nhận bà Thanh cung cấp đều là bản gốc, bà Thanh đi cùng hai vợ chồng ông Đỗ Văn Chinh và bà Đoàn Thị Tuất (hai người này xuất trình chứng minh thư và sổ hộ khẩu gốc) qua kiểm tra đối chiếu đầy đủ, rõ ràng, người yêu cầu công chứng và người tham gia ký kết đầy đủ…”

Trích từ nội dung TAND huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái ghi lại lời khai của ông Nguyễn Anh Liễu vào 9 giờ 30 phút, ngày 24/12/2021.

Thế nhưng, tại “Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, văn bản” đề ngày 30/6/2020 lại thể hiện chỉ duy nhất HĐCN (hợp đồng chuyển nhượng) là “Bản chính”, còn lại CMT (chứng minh thư), SHK (sổ hộ khẩu), Giấy CN qsdđ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là “Bản sao”.

Việc này không thể đảm bảo việc phát hành các hợp đồng cũng như chứng thực các bản sao từ bản chính được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về việc công chứng. Chưa kể đến việc các văn bản gốc đang có nhiều dấu hiệu bị làm giả.

Đầu tiên, theo hồ sơ bà Hạt cung cấp và cho biết, đối với bản sao Giấy chứng minh nhân dân của bà Đoàn Thị Tuất do bà Thanh công chứng thể hiện không rõ ràng về mặt nội dung khi những thông tin, dữ liệu, chữ ký, con dấu và bố cục của tài liệu gốc không thể nhận diện.

Tiếp theo, là bản gốc của hợp đồng chuyển nhượng nghi bị làm giả. Cụ thể, bà Hạt cho biết tại bản “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” thể hiện việc ông Đỗ Văn Chinh chuyển nhượng 1.379m2 cho bà Trương Thị Thanh thì thông tin Giấy chứng minh nhân dân của bà Đoàn Thị Tuất là 161723366, cấp ngày 27/9/2014, nhưng đều không đúng và bị sai lệch so với bản gốc được bà Hạt giữ từ trước đó.

Chưa hết, một số thông tin khác tại hợp đồng chuyển nhượng bản sao cũng bị sai lệch, cụ thể là số tiền chuyển nhượng 20.000.000 đồng, bằng chữ lại thể hiện “Năm mươi triệu Việt Nam đồng”. Và những giá trị trên cũng không phù hợp với giá trị 200 triệu đồng như nội dung tại “Giấy bán đất” đề ngày 10/8/2012.

Bên cạnh đó, nội dung tại “Giấy bán đất” viết tay ngày 10/8/2012 thể hiện việc bà Trương Thị Thanh được ông Đỗ Văn Chinh (cháu ruột bà Hạt) chuyển quyền sử dụng đất với giá 200 triệu đồng, và ông Chinh nhận đủ 200 triệu đồng vào cùng ngày. Tuy nhiên, ông Chinh thì khẳng định không ký vào giấy bán đất trên, cũng không nhận được 200 triệu đồng nào từ bà Thanh.

Căn cứ theo “Biên bản phiên toà dân sự phúc thẩm” ngày 15/9/2022 và Bản án số 20/2022/DS-PT ngày 25/9/2022, bà Thanh đã công nhận “Giấy bán đất” ngày 10/8/2012 do bà Thanh tự viết ra, chữ ký của ông Chinh cũng là do bà Thanh nhận là tự ký.

Từ những văn bản có dấu hiệu bị làm giả nêu trên, bà Đỗ Thị Hạt cho rằng việc chứng thực tại văn phòng công chứng là một nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp quyền sử dụng 1.379m2 đất giữa mình và bà Trương Thị Thanh đề nghị được làm rõ.

Trước những nghi vấn về việc “Giấy bán đất” ngày 10/8/2012 và “Giấy bán đất” ngày 15/10/2010  bị làm giả, ông Bùi Văn Hồng (người nhận ủy quyền của ông Đỗ Văn Chinh) có đơn đề nghị TAND tỉnh Lào Cai trưng cầu giám định nhưng được thông báo từ chối yêu cầu giám định, với nội dung bà Trương Thị Thanh chưa tìm thấy bản gốc (bản gốc đã được bà Thanh xin rút lại tài liệu vào ngày 15/6/2023). Vì vậy, “TAND tỉnh Lào Cai không có đối tượng cần giám định để tiến hành trưng cầu giám định theo yêu cầu của nguyên đơn”.

Tiếp theo đó, ngày 24/7/2024 ông Bùi Văn Hồng tiếp tục nộp bổ sung 25 loại giấy tờ tài liệu liên quan vụ án đến TAND tỉnh Lào Cai nhưng tại Bản án số 19/2024/DS-PT ngày 07/09/2024 lại có nội dung “người kháng cáo là ông Đỗ Văn Chinh không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh nội dung kháng cáo của mình” và tuyên Hợp đồng chuyển nhượng số 723 ngày 30/06/2020 giữa ông Chinh với bà Thanh là hợp pháp.

Từ những căn cứ trên, bà Hạt cho rằng vấn đề nảy sinh từ chính văn phòng công chứng, dẫn đến tranh chấp phức tạp qua nhiều năm, kéo theo quyền lợi của nhiều người liên quan. Bà Hạt đề nghị làm rõ vai trò và nhiệm vụ của công chứng viên và diễn biến của vụ việc diễn ra tại Văn phòng Công chứng Tạ Thị Minh (trước đây là Văn phòng Công chứng Nguyễn Anh Liễu, có địa chỉ: Số 51 Lý Đạo Thành, phường Lào Cai, tỉnh Lào Cai).

Đối với những hồ sơ đã chứng thực cho bà Trương Thị Thanh thì có hay không việc cố ý làm sai quy định, thủ tục công chứng. Bởi, những hồ sơ được chứng thực này cũng là điểm “mấu chốt” của vụ án tranh chấp thửa đất 1.379m2.

Cần làm rõ có hay không những dấu hiệu “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Nhận định về sự việc trên, Luật sư Phan Kế Hiền - Giám đốc Công ty Luật TNHH Bảo Tín, Đoàn luật sư TP.Hà Nội cho biết, tại Điều 40, 41 của Luật công chứng năm 2014 đã quy định công chứng viên có trách nhiệm yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính các giấy tờ để đối chiếu trước khi ký và ghi lời chứng trên hợp đồng, giao dịch. Đồng thời, công chứng viên phải kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng và đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ. Nếu không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.

Có thể thấy, quy định này nhằm đảm bảo tính xác thực của hồ sơ đồng thời tạo cơ sở để công chứng viên đánh giá tính hợp pháp của giao dịch. Trong vụ việc này, nếu đúng như thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng phản ánh việc CMND của bà Đoàn Thị Tuất do bà Hạt quản lý, có sai lệch về thông tin về số chứng minh và ngày cấp thì đây là hành vi sai phạm trong quá trình công chứng. Lúc này, Hợp đồng chuyển nhượng có thể bị vô hiệu theo quy định của pháp luật và Công chứng viên sẽ phải chịu trách nhiệm liên quan đến sai phạm trên tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi.

Luật sư Phan Kế Hiền - Giám đốc Công ty Luật TNHH Bảo Tín, Đoàn luật sư TP.Hà Nội.
Luật sư Phan Kế Hiền - Giám đốc Công ty Luật TNHH Bảo Tín, Đoàn luật sư TP.Hà Nội.

Đối với những giấy tờ có dấu hiệu bị làm giả, Luật sư Phan Kế Hiền cho rằng, trường hợp việc sử dụng giấy tờ bị làm giả trong hồ sơ công chứng không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật đơn thuần mà có thể cấu thành tội phạm theo quy định tại Bộ Luật hình sự (BLHS). Theo đó, nếu CMND hoặc các giấy tờ giao dịch chuyển nhượng bị làm giả thì hành vi này có dấu hiệu phạm “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với hình phạt là phạt tiền từ 30.000.000 đồng - 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm.

Không những vậy, nếu việc làm giả các giấy tờ được sử dụng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 BLHS với hình phạt cao nhất là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Bên cạnh đó, về trách nhiệm hình sự trong trường hợp cơ quan chức năng xác định công chứng viên biết rõ người tham gia giao dịch sử dụng tài liệu giả, chữ ký giả hoặc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua giao dịch này mà vẫn công chứng và cùng chung ý chí, mục đích chiếm đoạt tài sản thì có thể bị xem xét, xử lý với vai trò đồng phạm.

Có thể bị xem xét, xử lý với những tội danh tương ứng được quy định trong BLHS như Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360 BLHS với khung hình phạt từ phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 12 năm. Nếu gây thiệt hại thì còn phải bồi thường theo quy định tại Điều 38 Luật Công chứng năm 2014.

Đối với việc quyền lợi đang bị ảnh hưởng, bà Đỗ Thị Hạt cho rằng nhiều hồ sơ đang có dấu hiệu bị làm giả cần được cơ quan Cảnh sát điều tra xem xét, điều tra lại để làm rõ hành vi vi phạm pháp luật cũng như có hay không dấu hiệu hình sự ở đây. Trong đó, việc giám định 02 tờ giấy bán đất viết tay: 01 Giấy bán đất đề ngày 15/10/2010 người mua ký tên Trương Thị Thanh, người bán Kim Thị Dung (bản gốc); 01 Giấy bán đất đề ngày 10/08/2012 người mua ký tên Trương Thị Thanh, người bán Đỗ Văn Chinh (bản gốc).

Đồng thời, cần xác định tính hợp pháp của bản “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Chinh và bà Thanh. Và làm rõ việc chứng thực tại văn phòng công chứng có đúng theo quy định pháp luật hay không?

Diễn biến mới nhất liên quan đến sự việc trên, ngày 8/11/2025, bà Hạt đã gửi “Đơn tố giác tội phạm” đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Lào Cai tố cáo hành vi một mảnh đất bà Kim Thị Dung viết giấy bán cho hai người; bà Trương Thị Thanh có hành vi làm giả giấy tờ. Bà Hạt cũng cho biết, cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiếp nhận đơn và tiến hành xác minh thông tin, lấy lời khai để giải quyết.

Báo Pháp luật Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin!

Thành Lương - Hải Phong