Đi lên từ tuổi thơ cơ cực
Andrew Carnegie được sinh vào năm 1835 ở Dunfermline, Scotland. Khi công việc kinh doanh của cha mình thất bại, Carnegie và gia đình trở nên nghèo khó tới mức hàng ngày họ phải đi ngủ sớm để “quên đi cái đói khủng khiếp đang hành hạ”.
Trong hoàn cảnh khó khăn, năm 1848, gia đình ông rời quê hương sang Mỹ – miền đất hứa của rất nhiều người lao động nghèo châu âu thời ấy. Họ quyết định thực hiện một khởi đầu mới. Và khi thấy người cha phải đi xin xỏ việc làm, Carnegie đã thấy trong tim mình một sự thôi thúc.
Năm 12 tuổi, gia đình Carnegie đã chuyển tới thành phố Pittsburgh, nơi hai người dì của ông đang sinh sống. Cả nhà họ phải ngủ chung với nhau trong một căn phòng. Cha ông Andrew Carnegie là William Carnegie kiếm tiền bằng công việc dệt và bán vải rong, trong khi mẹ của ông chỉ kiếm được vài xu từ việc đóng giày. Trong khi đó, ông bắt đầu làm việc cho một nhà máy dệt.
Ông đã dành sáu ngày một tuần tại nhà máy, thường xuyên làm việc 12 giờ một ngày, với mức lương hàng tuần là 1,20 đô la. Mặc dù điều kiện khắc nghiệt, Carnegie đã tìm thấy một mục tiêu rõ ràng. Trong cuốn tự truyện của mình, ông nhớ lại, “Tôi đã kiếm được hàng triệu đô la kể từ đó, nhưng không ai trong số hàng triệu người đó mang lại niềm hạnh phúc như thu nhập trong tuần đầu tiên của tôi. Tôi bây giờ là một trụ cột của gia đình”.
Một nhà sản xuất địa phương đã quan sát đạo đức làm việc của Carnegie và thuê ông chạy một động cơ hơi nước. Công việc này đã tăng lương lên 2 đô la mỗi tuần nhưng khiến ông vô cùng kiệt sức. Sau vài tuần, ông đã sẵn sàng nghỉ việc. Tuy nhiên, Carnegie đã nghĩ về sự hy sinh của cha mẹ mình và biết ông không thể bỏ cuộc. Một ngày nọ, nhà sản xuất cần người xử lý hóa đơn. Carnegie đã dành thời gian rảnh của mình để cải thiện các kỹ năng toán học và nắm bắt cơ hội để trở thành một nhân viên bán hàng.
Ông Andrew Carnegie. |
Khoảng một năm sau, một người quản lý văn phòng điện báo địa phương đang tìm kiếm một người đưa tin mới. Carnegie được biết đến như một thanh niên đáng tin cậy và siêng năng. Với giá 2,50 đô la một tuần, Carnegie sẽ phải dành cả ngày để chạy đua quanh thành phố. Chính công việc này giúp ông biết và ghi nhớ được tên của hầu như tất cả doanh nghiệp và những nhân vật quan trọng trong vùng.
Có một giai thoại về thời gian này của ông. Người ta kể rằng khi còn là cậu bé đưa điện tín, ông rất thèm làm điện tín viên thực thụ. Vì vậy, buổi tối hết giờ làm việc ông ở lại để học thêm chữ Morse, sáng tới sớm để tập đánh tin. Một buổi sáng có tin quan trọng đặc biệt từ Philadelphia nhưng chưa có điện tín viên nào đến.
Thế là Carnegie chạy lại, nhận tin, chuyển tin và ngay ngày đó được đưa lên làm điện tín viên, lương gấp đôi. Sau này ông thích kể lại lần thành công đầu tiên đó. Từ câu chuyện này, người ta rút ra bài học “muốn trở nên một người ra sao phải hành động như đã là con người ấy”.
Một đêm nọ, ông chủ của Carnegie đã tuyên bố ông là người đưa tin tốt nhất trong văn phòng và hứa cho ông một phần thưởng. Khoảnh khắc tràn ngập niềm tự hào ấy đã khiến ông xúc động đến chảy nước mắt.
Một trong những nhà máy thép của tỷ phú Andrew Carnegie. |
Ngay sau đó, Carnegie được yêu cầu thay thế một người thợ máy điện báo. Ông nhanh chóng được thăng chức thành nhân viên làm việc toàn thời gian. Nhờ việc dành nhiều thời gian để làm quen với âm thanh điện báo, Carnegie nhận tin nhắn nhanh hơn nhiều so với các người thợ máy khác. Khi một thảm họa xảy ra ở một thị trấn gần đó, ông được phái đi để làm việc với các đường dây điện báo.
Tổng giám đốc của đường sắt, Thomas A. Scott, đã chú ý đến chàng trai trẻ đầy triển vọng này và đề nghị Carnegie trở thành thư ký riêng của ông với giá 4 đô la một tuần. Công việc này giúp ông tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về công nghiệp đường sắt và kinh doanh nói chung. Lương của ông khi đó là 35 USD/tháng. 3 năm sau, Carnegie được thăng chức làm người giám sát.
Thành công nối tiếp thành công
Khi làm việc ở đây, Scott đã dạy Carnegie về các khoản đầu tư và đưa ông đến một loạt các doanh nghiệp mới. Năm 1855, ông Andrew đã đầu tư 500 USD cho một con tàu đưa tin mang tên Adams Express. Đây là thời điểm mà ngành đường sắt đã trở thành một trong những ngành kinh doanh lớn nhất ở Mỹ. Ông hiểu được thị trường và sớm bắt đầu đầu tư vào ngành công nghiệp đường sắt cụ thể là đường ray, sắt, cầu,...
Việc đầu tư này đã giúp ông kiếm được một khoản lợi nhuận lớn và ông đã xây dựng một doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp đường sắt. Năm 1861, Andrew đã được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Đường sắt quân đội.
Các công trình của ông trong cuộc nội chiến đã nhận được nhiều sự đánh giá cao. Năm 1864, Andrew đầu tư gần 40.000 USD vào ngành dầu khí ở Venango County, Pennsylvania. Trong vòng một năm lợi nhuận đã vượt quá 1 triệu USD. Nhu cầu cho các sản phẩm sắt ngày càng tăng, và nó yêu cầu phải sản xuất thiết bị công nghiệp để đáp ứng các nhu cầu trong thời chiến.
Ông Andrew đã bỏ liên doanh đường sắt của mình và chỉ tập trung vào việc xây dựng một nhà máy sản xuất thép. Công ty này sau đó đã tăng trưởng với tốc độ nhanh chóng và đến năm 1887, nó đã sản xuất khoảng 2.000 tấn kim loại một ngày.
Tỷ phú Andrew Carnegie là nguồn cảm hứng bất tận cho ý chí vượt khó khởi nghiệp. |
Công ty của ông đã trở thành nhà sản xuất lớn nhất về đường ray thép, than cốc và gang trên thế giới. Năm 1888, Andrew đã mua công ty đối thủ của mình là Homestead Steel Works. Năm 1892, ông hợp nhất tất cả các công ty con mà ông sở hữu thành công ty thép mang tên Carnegie.
Chẳng bao lâu ông đã bắt đầu mở rộng công ty của mình bằng cách mua lại nhiều công ty nhỏ hơn như Pittsburgh Steel Works, Lucy Furnaces, Công ty Coke Frick, Hartman Steel Works và nhiều công ty khác. Đây là khởi đầu của đế chế Carnegie. Đến năm 1892, Hoa Kỳ đã vượt quá sản lượng đầu ra của Vương quốc Anh và hơn 75% sản lượng trong số đó thuộc sở hữu của Andrew Carnegie.
Cứ như vậy, trong 10 năm kế tiếp, Carnegie dành hầu hết thời gian cho ngành thép. Công việc của ông tại Công ty Thép Carnegie đã mở ra thời kỳ cách mạng hóa hoạt động sản xuất thép ở Hoa Kỳ. Carnegie xây dựng các nhà máy trên khắp đất nước, dùng các phương pháp và công nghệ giúp sản xuất thép dễ, nhanh và năng suất cao hơn. Năm 1897, Carnegie trở lại Scotland và bỏ tiền mua tòa lâu đài Skibo. Ông gọi khu bất động sản này “thiên đường trên trái đất”.
Năm 1900, Công ty Thép Carnegie đã sản xuất ra lượng thép nhiều hơn cả nước Anh. Năm 1901, Carnegie đã thay đổi cuộc đời mình khi bán công ty cho United States Steel Corporation, thuộc sở hữu của huyền thoại tài chính J. P. Morgan. Thương vụ này mang về cho ông 480 triệu USD (tương đương 309,2 tỷ USD ở thời điểm hiện nay). Ở tuổi 65, ông quyết định dùng hết thời gian còn lại để giúp đỡ người khác.
Carnegie tin rằng “sự giàu có là cái chết đáng hổ thẹn”. Sau khi bán công việc kinh doanh của mình, ông mang niềm đam mê của mình đến với lòng từ thiện. Khi ông qua đời vào năm 1919, ông đã cho đi hơn 350 triệu đô la (như một phần GDP, số tiền quyên góp tương đương gần 80 tỷ đô la ngày nay).
Carnegie cũng tin rằng giáo dục có thể thay đổi xã hội. Ông đã tài trợ cho hơn 3000 thư viện trên khắp thế giới. Ông cũng đã hào phóng trao những học bổng và quỹ hưu trí cho giáo viên. Ông còn đóng góp cho rất nhiều hoạt động từ thiện khác và hỗ trợ cho hơn 2.800 thư viện được mở cửa. Ước tính ông đã đóng góp 60 triệu USD cho các thư viện, 78 triệu USD cho giáo dục, tặng các giáo đường 7.000 đàn piano…
Tỷ phú Carnegie đã qua đời ngày 11/8/1919. Tài sản của ông Andrew sau khi điều chỉnh lạm phát là 290 tỷ USD trong năm 2007 và ông là một trong những người đàn ông giàu nhất thế giới.
Có thể nói, từ một kẻ nghèo không một xu dính túi, Andrew Carnegie trở thành một tỷ phú và tạo ra rất nhiều triệu phú khác trong ngành công nghiệp của mình. Ông thừa nhận mình không giỏi chuyên môn nhưng có nhiều tài chinh phục lòng nhân. Những kinh nghiệm của ông đã trở thành những bài học kinh điển cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới.