Gần 13 nghìn tỷ đồng được chi trả
Từ đầu năm 2020 đến nay, dịch bệnh Covid-19 đã và đang ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề, lĩnh vực, đặc biệt là du lịch, vận tải, bán lẻ, ngoại thương, đầu tư và cả tài chính - ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp (DN) phải tạm ngừng hoạt động, thu hẹp các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là trong các ngành dệt may và da giày, ngành nông sản, dịch vụ du lịch và bán lẻ… dẫn đến nhiều người lao động (NLĐ) bị mất việc làm.
Theo báo cáo của Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH), trong quý I/2020, toàn quốc có tổng số người hưởng trợ cấp thất nghiệp (TCTN) là 132,3 nghìn người, tăng 10% so quý I/2019. Tổng chi ba tháng đầu năm từ Quỹ BHTN cho các chế độ BHTN là hơn 2,7 nghìn tỷ đồng, trong đó chi riêng cho TCTN là 2,59 nghìn tỷ đồng, với mức hưởng TCTN bình quân là 3,7 triệu đồng/người/tháng... Chỉ riêng tháng 3/2020 (tháng cao điểm do ảnh hưởng của đại dịch), cả nước đã có 59,2 nghìn người hưởng TCTN, tăng 31% so cùng kỳ năm 2019.
Số liệu gần nhất, theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết ngày 31/10/2020, toàn quốc đã giải quyết chế độ BHTN cho 881,8 nghìn người với số tiền chi trả 12,9 nghìn tỷ đồng, tăng 26,9% so với cùng kỳ 2019. Những con số này vẫn đang tiếp tục gia tăng hàng ngày do tác động tiêu cực, sâu rộng của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao động.
Trong bối cảnh đó, BHTN đã thật sự trở thành “chỗ dựa” của cả triệu người lao động, giúp họ có nguồn tài chính vượt qua giai đoạn khó khăn, duy trì cuộc sống; giúp người sử dụng lao động không bị áp lực về tài chính, vì không phải chi trả trợ cấp thôi việc, mất việc cho NLĐ và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vì không phải cấp một khoản kinh phí cũng như thời gian để xây dựng chính sách, trình tự, thủ tục để tổ chức thực hiện hỗ trợ cho đối tượng này.
Bốn chế độ hỗ trợ lao động
Chính sách BHTN theo quy định tại Luật BHXH 2006 được tổ chức triển khai thực hiện từ 01/01/2009 với mục tiêu hỗ trợ NLĐ bị thất nghiệp một phần thu nhập, hỗ trợ học nghề và tư vấn, giới thiệu việc làm giúp NLĐ sớm quay trở lại thị trường lao động.
Từ ngày 01/01/2015, chính sách BHTN được thực hiện theo quy định của Luật Việc làm với những sửa đổi về mặt chính sách. Nhờ đó mà từ gần 6 triệu người tham gia BHTN vào năm 2009 thì đến ngày 31/12/2019 đã có trên 13 triệu người tham gia, tổng số người được chi trả TCTN hàng tháng gần 5,7 triệu người với số tiền chi trả trên 52 nghìn tỷ đồng. Tổng số người hưởng hỗ trợ học nghề trên 200 nghìn người với số tiền hỗ trợ 408 tỷ đồng. Ngoài ra, Quỹ BHTN còn chi trả tiền đóng BHYT cho người hưởng TCTN với tổng số tiền xấp xỉ 2,4 nghìn tỷ đồng.
Số đối tượng hưởng TCTN trong những năm đầu thực hiện chính sách còn tương đối thấp, thời gian hưởng TCTN ngắn, được phản ánh số chi các chế độ BHTN so với số thu Quỹ BHTN trong những năm đầu chỉ dao động khoảng dưới 30%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây tỷ lệ này bắt đầu gia tăng, năm 2015 là trên 52% và đến năm 2019 tỷ lệ này là 70%. Đặc biệt, trong 10 tháng đầu năm 2020 tỷ lệ này là khoảng 90%.
Chính sách BHTN được triển khai, thực hiện đồng bộ từ cơ quan liên quan; trong đó vai trò chính là ngành BHXH và ngành LĐ-TB&XH. Đối với những người đã mất việc làm, chính sách BHTN hỗ trợ đối với những đối tượng này theo điều 42 của Luật Việc làm, trong đó có bốn chế độ hỗ trợ người lao động gồm: (1) Trợ cấp thất nghiệp; (2) hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; (3) hỗ trợ học nghề; (4) hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động. Trong đó, người lao động mất việc được giới thiệu việc làm miễn phí, từ đó chọn được những việc làm tốt, không phải mất phí giới thiệu.
Trong đại dịch Covid-19, hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm đã phát huy chức năng quản trị thị trường lao động thông qua thực thi chính sách BHTN; đẩy mạnh hoạt động thu thập thông tin về thị trường lao động, nắm bắt, cập nhật tình hình biến động lao động; khai thác vị trí việc làm trống để tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động và cung cấp thông tin cho người sử dụng lao động, góp phần điều tiết thị trường, qua đó giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Báo cáo của Tổng cục thống kê từng đưa ra con số 31,8 triệu người bị ảnh hưởng việc làm từ đại dịch Covid-19 ở Việt Nam. Đó là những người cần đến sự hỗ trợ của chính sách BHTN. Tuy nhiên, dù có sự tăng trưởng nhanh qua các năm nhưng tính đến tháng 10/2020, toàn quốc số người tham gia BHTN mới có 13,03 triệu người tham gia BHTN. Con số này còn thấp so với lực lượng lao động trong độ tuổi ở nước ta, do đó cần phải tiếp tục thực hiện các giải pháp để tăng diện bao phủ, để BHTN có thể hỗ trợ được thêm nhiều NLĐ hơn nữa.
Đơn cử, ngành du lịch đang chịu sự tác động rất lớn của đại dịch Covid-19, ước tính du lịch Việt Nam thất thu tới 23 tỷ USD, ảnh hưởng đến việc làm của 870 nghìn lao động. Tuy nhiên, lao động trong lĩnh vực này, hiện chủ yếu theo hình thức hợp đồng đại lý, không thuộc đối tượng tham gia BHTN nên không đủ điều kiện nhận được sự hỗ trợ từ chính sách. Đó là “khoảng trống” cần được “lấp đầy” trong tương lai của chính sách BHTN, nhất là với những ngành nghề người lao động dễ bị tổn thưởng do dịch bệnh, thiên tai.
Việc tăng diện bao phủ cũng giúp Quỹ BHTN thêm nguồn lực để chia sẻ, hỗ trợ tốt hơn cho người lao động. Nhìn vào những con số người hưởng, số chi BHTN trong 10 tháng năm 2020, dễ dàng nhận thấy nguồn lực quỹ BHTN tưởng dồi dào nhưng đứng trước những biến động lớn của thị trường lao động cũng đối mặt không ít thách thức.
Tính đến hết 31/10/2020, tổng số thu BHTN toàn quốc đạt 15,1 nghìn tỷ đồng nhưng số chi đã lên tới gần 13 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 90% số thu). Trong khi đó, theo các chuyên gia, tình hình dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp và ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội lâu dài. Số người hưởng BHTN vẫn còn tăng cho thấy những nguy cơ về mất cấn đối thu chi quỹ BHTN trong ngắn và trung hạn.
Vì vậy, theo Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH), thời gian tới, để phát huy vai trò tích cực hơn nữa của chính sách BHTN, bên cạnh việc tăng diện bao phủ cũng cần có giải pháp sử dụng hiệu quả Quỹ BHTN.
Với tư cách là cơ quan thực hiện chính sách BHTN, BHXH Việt Nam cho biết, cơ quan này đã kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền tăng cường giám sát việc thực hiện các chế độ BHTN nhằm đưa NLĐ thất nghiệp sớm quay trở lại thị trường lao động, đánh giá lại công tác dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm cho NLĐ bị thất nghiệp trở lại thị trường lao động.
Từ đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách về hỗ trợ học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm cho NLĐ. Mở rộng điều kiện hỗ trợ để người sử dụng lao động dễ tiếp cận hơn với chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ. Bổ sung thêm các khoản hỗ trợ khác ngoài hỗ trợ học nghề. Đổi mới, nâng cao chất lượng của các trung tâm dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm; gắn công tác dạy nghề, tư vấn giới thiệu việc làm với nhu cầu thực tế của DN, thị trường lao động.