Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến hết tháng 7/2023, xuất khẩu thủy sản đạt gần 5 tỷ USD, giảm 25% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giảm sâu nhất vẫn là cá tra (giảm 36%), tôm và cá ngừ giảm 27% so với cùng kỳ năm ngoái.
Riêng trong tháng 7/2023, xuất khẩu thủy sản ước đạt 830 triệu USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu tôm giảm 10% đạt khoảng 345 triệu USD, cá tra đạt 150 triệu USD, giảm 20%, cá ngừ giảm nhẹ 3% và các loại cá khác giảm 12% so với tháng 7/2022.
Về thị trường xuất khẩu, tín hiệu phục hồi rõ rệt nhất ở thị trường Trung Quốc, trong tháng 7/2023 tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt gần 180 triệu USD. Xuất khẩu sang các thị trường chính khác vẫn thấp hơn 5 - 40% so với tháng 7/2022.
Với thị trường Trung Quốc, VASEP kỳ vọng nửa cuối năm 2023, kinh tế quốc gia này sẽ ổn định hơn, thu nhập và tiêu dùng của người dân tăng dần, thị trường thích nghi bối cảnh mới… Khi đó, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc & Hong Kong có cơ hội phục hồi lại với dự đoán tương đương với kim ngạch của năm 2023 với khoảng 1,8 tỷ USD.
Theo nhận định của VASEP, có ba yếu tố lạc quan quyết định kịch bản xuất khẩu thủy sản trong nửa cuối năm.
Một là diễn biến kinh tế các thị trường lớn được dự báo khả quan hơn trong nửa cuối năm cộng với thực tế nhu cầu nhập khẩu của các thị trường như Mỹ và Trung Quốc đang có xu hướng tăng trở lại, khi lượng tồn kho đang vơi dần và chuẩn bị đơn hàng cho dịp lễ hội cuối năm và năm mới.
Hai là nội lực của doanh nghiệp và cộng đồng sản xuất chuỗi cung ứng thủy sản được hỗ trợ kịp thời về nguồn vốn, các điều kiện sản xuất kinh doanh để giữ được nguồn cung nguyên liệu ổn định, đảm bảo có sẵn nguồn hàng khi thị trường có nhu cầu.
Ba là các sản phẩm xuất khẩu có nguồn cung ổn định và có giá thành giảm, giá bán cạnh tranh trước các nước khác
Với kịch bản thuận lợi đó, xuất khẩu thủy sản 5 tháng còn lại năm 2023 có thể sẽ đạt khoảng trên 4 tỷ USD, khi đó tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2023 sẽ đạt trên 9 tỷ USD, giảm 15-16% so với năm 2022.
Trong số đó, dự báo tôm sẽ thu về lượng ngoại tệ khoảng 3,5-3,6 tỷ USD, giảm 16-18%. Cá tra giảm 28% đạt 1,7-1,8 tỷ USD. Xuất khẩu cá ngừ và mực, bạch tuộc sẽ giảm khoảng 14-15% đạt lần lượt 870 triệu USD và 650 triệu USD. Xuất khẩu cá biển ước đạt 1,9-2 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm 2022.
Các thị trường chính chắc chắn sẽ vẫn mang về doanh thu ít hơn so với năm 2022, trong đó xuất khẩu sang Mỹ và Hàn Quốc sẽ thấp hơn 24-25% so với năm 2022, xuất khẩu sang EU sẽ giảm 18%.
Trong khi đó, thị trường Nhật Bản sẽ khả quan hơn nhờ giá trị của hàng giá trị gia tăng và nhờ phân khúc gia công, chế biến cho thị trường này, nhất là các loài cá biển.
Thị trường Trung Quốc vẫn là kỳ vọng lớn nhất cho doanh nghiệp thủy sản hiện nay, sau mở cửa, giao thương đang trở lại bình thường dần dần. Hy vọng nửa cuối năm, kinh tế Trung Quốc ổn định hơn, thu nhập và tiêu dùng của người dân tăng dần, thị trường thích nghi bối cảnh mới… Khi đó, xuất khẩu thủy sản có cơ hội phục hồi lại với dự đoán tương đương với kim ngạch của năm 2023 với khoảng 1,8 tỷ USD.
Ngược lại, ở kịch bản kém lạc quan hơn, VASEP cho rằng, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 5 tháng cuối năm có thể đạt khoảng 3,5 - 3,7 tỷ USD. Kết quả này sẽ kéo tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2023 đạt khoảng 8,5 - 8,7 tỷ USD. Trong đó, sụt giảm sâu nhất là ngành hàng cá tra và tôm. Tình hình xuất khẩu hải sản có thể sẽ xấu hơn nếu kết quả thanh tra chương trình chống khai thác IUU của đoàn thanh tra EU vào tháng 10 tới không đạt được kỳ vọng tháo gỡ thẻ vàng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến kịch bản này bao gồm việc thị trường có tín hiệu phục hồi, nhu cầu tăng trở lại nhưng hàng thủy sản của Việt Nam vẫn khó cạnh tranh về giá và nguồn cung với các nước như Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan…
Bên cạnh đó, các vấn đề của ngành chưa có giải pháp tháo gỡ trước mắt cũng như lâu dài như: giá thành sản xuất cao vì các chi phí đầu vào như thức ăn chăn nuôi và con giống cao, lợi nhuận sụt giảm, thiếu vốn để duy trì đầu tư nuôi các vụ tới, người sản xuất bỏ ao dẫn đến thiếu nguyên liệu đáp ứng đơn hàng cuối năm.