Người Mẹ của người Việt - Mẹ Âu Cơ
Phụ nữ Việt Nam vốn cháu con Quốc Mẫu Âu Cơ, dòng dõi tiên nên nhu mì, thùy mị được tiếng là đẹp, rất đẹp, nhất là trong tà áo dài tha thướt với vành nón lá che nghiêng nghiêng mái tóc xõa bờ vai…
Trong tâm thức của mỗi người con đất Việt, Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ là khởi nguồn của người Việt. Theo truyền thuyết: Mẹ Âu Cơ vốn là con gái của Đế Lai ở động Lăng Xương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay). Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm tỏa ngát, trên trời có mây lành che chở, điềm báo “Tiên nữ giáng trần”.
Âu Cơ được Lạc Long Quân kén làm vợ và đưa về núi Nghĩa Lĩnh, sau đó sinh ra bọc trăm trứng nở ra một trăm người con trai tại khu vực Đền Hạ (Đền Hùng ngày nay). Khi các con lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên duyên phận đến đây đã hết”. Rồi Lạc Long Quân đưa 50 người con về miền biển làm nghề chài lưới, Âu Cơ đưa 49 người con lên núi khai phá rừng hoang, để lại người con trưởng làm vua, 18 chi đời đều gọi là Hùng Vương”.
Từ huyền thoại ấy, bao đời nay, hình tượng Cha Rồng, Mẹ Tiên đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, trở thành biểu tượng thiêng liêng về giống nòi của dân tộc mình. Tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ gắn liền với sự tri ân công đức người Mẹ của muôn dân - Mẹ Âu Cơ, người đã đưa đàn con đi khai thiên phá thạch, mở mang sơn trang, bờ cõi.
Trong huyền tích, hình ảnh Mẹ Âu Cơ như bao người mẹ Việt khác, bình dị, đảm đang, chịu thương, chịu khó và rất mực yêu thương các con. Sau khi đưa các con lên núi, Mẹ Âu Cơ dạy muôn dân trồng lúa nước, nuôi tằm, dệt vải, đánh bắt cá, hái lượm… Bởi vậy, hình tượng Mẫu Âu Cơ luôn gắn với nền văn minh nông nghiệp, là người Mẹ xứ sở.
Tưởng nhớ công lao của Mẹ Âu Cơ, đồng thời để bảo tồn, phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu đặc biệt là tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, tháng 9/2001, Đền Tổ Mẫu Âu Cơ được khởi công xây dựng trong khuôn viên Khu Di tích và khánh thành vào tháng 1/2005. Kiến trúc đền theo kiểu chữ Đinh, quay theo hướng Đông Nam.
Tuy được xây dựng trong thế kỷ XXI nhưng đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ vẫn mang đậm nét truyền thống, mái cong hình thuyền, các cột cái, khung, sườn, mái, vách ngăn, đều được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, tường xây gạch Bát Tràng. Các họa tiết trang trí được mô phỏng theo các hoa văn trên trống đồng Đông Sơn như hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim Lạc, nhà sàn, con thuyền...
Trong hậu cung, là nơi đặt khám thờ có tượng Mẹ Âu Cơ được đúc bằng chất liệu đồng, dát vàng bên ngoài. Tượng là sự kết tinh và hội tụ những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: Hiền dịu, phúc hậu, đoan trang, cùng với tâm thế bình dị, ung dung.
Hàng năm, vào các ngày lễ chính: Ngày Mẫu thăng (ngày 25 tháng Chạp); Mẫu giáng (mùng 7 tháng Giêng); ngày giỗ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân (6/3 âm lịch) tại Đền Tổ Mẫu Âu Cơ, Khu Di tích lịch sử Đền Hùng đều tổ chức lễ tiệc long trọng. Theo nghi thức truyền thống, lễ vật thường có: Bánh chưng, bánh giằng, thủ lợn, ván xôi, trầu têm cánh phượng, hoa ngũ sắc...
Muôn đời “con cháu Bà Trưng, Bà Triệu”
Những năm đầu công nguyên, Cổ Loa với vị thế là một kinh đô cổ của đất nước đã sớm trở thành một trung tâm của các cuộc nổi dậy, đấu tranh giành độc lập của nhân dân, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Hai chị em Bà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị, quê quán làng Cổ Lai, đất Mê Linh. Lúc ấy nước nhà đang bị người Hán phương Bắc cai trị bằng chính sách hà khắc khiến dân ta vô cùng khốn khổ. Rồi vào năm 40, sau Tây Lịch, Thái Thú Tô Định lại bắt giết ông Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc làm cho nợ nước chồng chất thêm thù nhà.
Thiêng liêng nghi lễ tế nữ quan trong Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ |
Bà Trưng Trắc cùng em là Bà Trưng Nhị đứng lên chiêu tập binh mã, anh hùng hào kiệt khắp nơi để đánh đuổi quân xâm lăng bạo tàn. Quân binh của Hai Bà chiến đấu rất dũng mãnh, chiếm được 65 thành, đánh đuổi quân Tô Định chạy về nước.
Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dân chúng tôn Bà Trưng Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, Vua Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mã Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đã gieo mình xuống dòng Hát Giang tuẫn tiết. Không có hình ảnh nào vừa hào hùng, vừa lãng mạn cho bằng hình ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo mình xuống dòng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”.
Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử:
Bà Trưng quê ở Châu Phong/Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên/Chị em nặng một lời nguyền/Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân/Ngàn Tây nổi áng phong trần/Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống ách đô hộ nhà Hán, hơn hai trăm năm sau, vào thế kỷ thứ II, có một người phụ nữ không chịu cam tâm cúi đầu làm nô lệ phương Bắc mà chỉ huy nghĩa quân đánh đuổi giặc Ngô. Người phụ nữ anh hùng đó là Triệu Thị Trinh.
Triệu Thị Trinh (còn có những tên gọi khác như Triệu Trinh Nương, Nàng Trinh hoặc là Bà Triệu) sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại vùng núi Nưa thuộc đất Trung Sơn, quận Cửu Chân (nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa), trong một gia đình hào trưởng. Bà Triệu mất năm 248, lúc mới 22 tuổi.
Đền thờ Bà hiện nằm trên đỉnh núi Tùng thuộc thôn Phú Điền, nay là xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, là di tích lịch sử quan trọng của quốc gia như một bằng chứng về niềm tự hào và tôn vinh người phụ nữ liệt oanh của dân tộc Việt Nam.
Bấy giờ nước ta nội thuộc nhà Ngô. Khi Bà Triệu bước vào tuổi thanh xuân thì cuộc hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy) cũng đang hồi quyết liệt nhất. Từ đất quê hương của mình, năm 248, Triệu Quốc Đạt, anh trai Triệu Thị Trinh đã đứng lên tập hợp lực lượng khởi nghĩa. Triệu Quốc Đạt không muốn em gái mới 19 tuổi của mình tham gia, bèn khuyên em ở nhà lấy chồng.
Bà Triệu cứng cỏi đáp: “Em muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người”. Câu trả lời ấy đã thể hiện một khí phách anh hùng, một nhân cách ngạo nghễ hiếm có ở một người con gái.
Triệu Thị Trinh đã cùng anh tập hợp nghĩa quân trên núi Nưa rồi kéo quân đánh hãm thành ấp khiến châu quận rối động. Quan quân đô hộ nhiều lần tìm cách đánh dẹp nhưng không dẹp nổi. Ra trận Bà cưỡi voi mặc giáp vàng trông rất oai phong làm quân Ngô khiếp sợ. Nghĩa binh tôn Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân. Đúng lúc nghĩa quân đang hừng hực khí thế thì Triệu Quốc Đạt bất ngờ qua đời.
Không để quân sĩ mất tinh thần, Triệu Thị Trinh thay anh tiếp tục ngồi trên đầu voi chỉ huy nghĩa quân. Từ đó Bà được quân sĩ tôn gọi là Vua Bà. Và trái với ghi chép của thư tịch cổ, chân dung Bà Triệu trong tình cảm nồng hậu của các thế hệ dân gian. Theo đó, bà có một vẻ đẹp rất thánh thiện mà cũng thật đoan trang, rất thuỳ mị với mọi người nhưng cũng rất dũng mãnh với kẻ thù.
Tên tuổi và sự nghiệp của Bà Triệu đã trở nên bất diệt với “vạn cổ thử giang sơn” (muôn đời sông núi này) (Chữ của Trần Quang Khải trong bài cảm khái ông viết sau trận đại thắng quân Mông Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (1285) và mãi mãi toả sáng trong sử sách cũng như trong ký ức của các thế hệ nhân dân yêu nước:
Bà Trưng, Bà Triệu là những bậc nữ lưu anh hùng đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Thật xứng đáng:
“Phấn son tô điểm sơn hà/Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!”.
Và Thánh mẫu Liễu Hạnh
Trong tiềm thức của người Việt Nam, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một vị thần biểu tượng cho khát vọng tự do, phóng khoáng, thoát khỏi những quy tắc ràng buộc của xã hội dành cho người phụ nữ. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều sắc, tôn phong là “Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân” và cuối cùng quy y cửa Phật. Bà còn được cho là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu.
Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà. Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch - ngày giỗ của bà, tại nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam.