Xin đừng nhỏ giọt !

Chính sách phát triển “tam nông” nhận được sự ủng hộ của nhân dân cả nước, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng lương thực (cùng với khủng hoảng năng lượng) đang là vấn đề nóng bỏng toàn cầu. Nhưng làm thế nào để huy động được các nguồn lực  phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam- nơi chiếm hơn 70% dân số-  vẫn rất cần sự tính toán hợp lý và toàn diện hơn.

Đầu tư không cân xứng

Theo  thống kê chưa đầy đủ, trong 5 năm (2003-2007), Việt Nam đầu tư  phát triển nông nghiệp 113 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới đáp ứng 17% nhu cầu của khu vực nông nghiệp. Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội đều có chung ý kiến: nông dân là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Trong lúc đóng góp của nông nghiệp, nông thôn chiếm tới 20% GDP,  mức đầu tư như những năm qua là chưa phù hợp. Đấy là chưa nói tới hơn 70% dân số sống ở khu vực này.

Mặt khác đầu tư cho khuyến nông chỉ là 0,13% GDP (trong khi các nước khác 4%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp, nông thôn mới chiếm 3% tổng nguồn FDI… Nông nghiệp, nông dân là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp…) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại không đổ vào nhiều. 

Ước tính đến tháng 6-2008, dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, cộng với vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách, đạt khoảng 181.500 tỷ đồng, chỉ chiếm khoảng 17% tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Thiếu vốn, “tam nông” không khả thi

Hiện thị trường tài chính nông thôn Việt Nam đang được tiếp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư đa dạng như: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng NN lãi suất ưu đãi đầu tư các dự án, vốn tín dụng lãi suất ưu đãi cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách… Tuy nhiên, đến nay, chưa có thống kê đầy đủ, chính xác về tổng nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, thực trạng và nhu cầu vốn đầu tư cho từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể trong nông nghiệp.

Để có thể đạt được mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể CNH-HĐH nông nghiệp,  nông thôn đến năm 2010 và 2020,  điều quan trọng nhất là xác định rõ tổng nguồn vốn đầu tư, phân ra từng loại nhu cầu, chia theo thời gian. Nếu không xác định rõ nhu cầu vốn thì không thể lo được nguồn vốn và không có vốn đáp ứng thì  chính sách “tam nông”  không thể khả thi.

Có nhiều nguyên nhân làm khu vực nông thôn khó tiếp cận các nguồn tài chính. Trước hết, do tích lũy của khu vực nông nghiệp rất thấp. Theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp, Nông thôn (Bộ No&PTNT), từ năm 2002, mức tích lũy trung bình một người ở nông thôn tăng lên rõ rệt nhưng cũng chỉ đạt chưa đầy 800.000 đồng/năm, rất thấp để có thể đầu tư hiệu quả và có tích lũy để tái đầu tư hoặc mở rộng sản xuất. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay, tỷ lệ lạm phát càng cao, mức tích lũy của người dân càng thấp, trong khi vốn cần để đầu tư sản xuất ngày càng nhiều. Trong khi đó, không có vốn huy động thành thị chuyển về cho vay nông thôn mà lại có tình trạng vốn huy động từ địa bàn nông thôn lại chuyển ra cho vay tại đô thị.

Đó là chưa kể, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan chuyên môn trên địa bàn như Sở Nông nghiệp, các phòng khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư... chưa thật sâu sát trong việc tham mưu cho chính quyền địa phương lập quy hoạch, hướng dẫn người dân phát triển sản xuất theo quy hoạch và giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp; chưa tạo lập được môi trường thuận lợi và cơ chế phù hợp gắn kết giữa nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và Nhà nước. Hơn nữa, việc xét duyệt danh sách cho vay do chính quyền xét nên đôi khi chưa sát thực. Một số địa phương quán triệt chủ trương của Đảng,  Nhà nước đến các hộ vay chưa đầy đủ...nên có hiện tượng các hộ dân vay vốn chây ỳ không chịu trả nợ, xem đây là khoản trợ giúp của Nhà nước. Do đó khi đến hạn, ngân hàng thu nợ rất khó khăn.

Để khắc phục tình trạng này, các chuyên gia khuyến nghị Nhà nước cần có chính sách tài chính hỗ trợ và khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư trực tiếp vào vùng nông thôn, miền núi, vùng khó khăn, như chính sách thuế, hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng, tiền thuê đất... Bên cạnh đó, các Bộ, ngành liên quan và UBND các cấp cần thực hiện việc quy hoạch, kế hoạch phát triển theo vùng, lãnh thổ, trong đó có quy hoạch kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng tạo cơ sở và điều kiện để ngân hàng đầu tư vốn; quản lý tập trung, thống nhất các nguồn vốn cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn hiện có. Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; xác định lại các địa bàn khó khăn để có chính sách ưu đãi tín dụng hợp lý; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng đầu tư nhiều vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, dành một tỷ lệ nhất định lượng tiền cung ứng để tái cấp vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn với lãi suất hợp lý.

 

Hải Nguyễn tổng hợp