Xác minh điều kiện thi hành án, "đoạn trường" lắm gian nan

 Thi hành án (THA) dân sự là một đoạn cuối của cuộc “chơi bằng tòa” và cũng là “đoạn đường lắm chông gai” đối với các đương sự là người được THA. Bài viết này phân tích những khó khăn đó.

Thi hành án (THA) dân sự là một đoạn cuối của cuộc “chơi bằng tòa” và cũng là “đoạn đường lắm chông gai” đối với các đương sự là người được THA. Bài viết này phân tích những khó khăn đó.

Xác minh điều kiện THA. Hình minh họa
Xác minh điều kiện THA. Hình minh họa

Hiện nay, việc THA dân sự được điều chỉnh bởi Luật THA dân sự số 26/2008/QH12 (“Luật số 26”), Nghị định 58/2009/NĐ-CP về THA, Thông tư 22/2010/TT-BTP hướng dẫn một số hoạt động THA (“Các văn bản hướng dẫn thi hành”).

Nhiều ý kiến cho rằng với các quy định hiện nay, Luật THA và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra một bước tiến mạnh trong công cuộc cải cách công tác THA, giảm gánh nặng cho cơ quan THA, tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan trong việc THA cũng như là thể hiện chức năng “chỉ cầm cân” của cơ quan nhà nước trong mối quan hệ dân sự.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy quy định về nghĩa vụ xác minh điều kiện THA là chặng đường đầy chông gai.

Theo quy định trước đây thì người được THA có quyền làm đơn yêu cầu THA, khi đó cơ quan THA có thẩm quyền có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nhằm thực thi bản án. Tuy nhiên, với các quy định mới tại Luật số 26 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì người yêu cầu THA phải cung cấp “thông tin về tài sản hoặc điều kiện THA của người phải THA”.

Tất cả chỉ dừng lại ở đó, Luật chỉ quy định ngắn gọn trách nhiệm của người yêu cầu THA như vậy trong khi cho đến nay các văn bản hướng dẫn THA lại không có hướng dẫn nào chi tiết hơn, cụ thể hơn như thế nào là “thông tin về tài sản”? giới hạn nội dung của từ “thông tin” là gì? Hay thế nào là “điều kiện THA”?....Nói như vậy để thấy rằng thực tế hiện nay do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nội hàm của những cụm từ trên nên xảy ra rất nhiều cách hiểu, cách vận dụng khác nhau về những quy định này. Đi kèm với sự không rõ ràng, minh bạch của các quy định thường là tiêu cực, là phiền toái cho những đương sự trong mỗi trường hợp cụ thể.

Hai trường hợp thực tế dưới đây sẽ minh chứng cho điều đó.

Các quy định về thi hành án cần thiết phải cân nhắc thật kỹ các yếu tố có liên quan, nhất là đối tượng áp dụng, điều kiện, hoàn cảnh thực tế

Công ty A yêu cầu Cơ quan THA quận BT, TP. HCM thi hành bản án trả tiền bồi thường thiệt hại về bảo hiểm hàng hóa đối với công ty bảo hiểm B. Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành bản án là số tài khoản của công ty bảo hiểm B tại một ngân hàng cùng trên địa bàn quận với cơ quan THA.

Số tài khoản này công ty A biết được từ các hợp đồng bảo hiểm đã ký kết. Công ty A cung cấp số tài khoản, chủ tài khoản, người đại diện hợp pháp, tên ngân hàng, địa chỉ và tất nhiên là không thể cung cấp số dư còn lại trong tài khoản bởi thông tin này thì chỉ có mỗi Ngân hàng và công ty B biết mà thôi. Những tưởng như vậy là đã quá “ngọt”, THA chỉ thực hiện “công đoạn” cuối là ra quyết định THA là xong. Tuy nhiên, chấp hành viên trả lời cho đương sự rằng “anh có biết chắc là trong tài khoản này có tiền không?chưa chắc tài khoản này có tiền nên không được, anh phải làm cách khác...?

Một trường hợp khác, A yêu cầu cơ quan THA thực thi bản án bồi thường thiệt hại mà theo đó B phải bồi thường cho A 30 triệu đồng. Thông tin điều kiện THA mà A cung cấp cho cơ quan THA là chiếc xe Honda Airblack của B với biển số cụ thể. Cứ nghĩ rằng như vậy là cơ quan THA có đủ điều kiện THA nhưng ai ngờ rằng cơ quan THA yêu cầu A bổ sung giấy chứng nhận đăng ký xe của B đối với chiếc xe. A không cung cấp được nên cơ quan THA trả đơn yêu cầu THA với lý do đơn yêu cầu THA không hợp lệ vì người yêu cầu không cung cấp thông tin điều kiện THA!

Qua cách xử lý trong hai trường hợp trên ta thấy cùng một quy định nhưng giữa người dân và cơ quan THA có cách hiểu khác nhau. Trong trường hợp 1 thì người dân hiểu các thông tin như số tài khoản, ngân hàng mở tài khoản, chủ tài khoản, địa chỉ ngân hàng là đủ để cơ quan THA “làm việc”. Tuy nhiên cơ quan THA lại yêu cầu là phải chỉ rõ số tiền trong tài khoản là bao nhiêu thì mới đáp ứng được nội hàm của thuật ngữ “thông tin về tài sản hoặc điều kiện của người THA”. Mặc dù cơ quan THA chưa hề biết số dư tiền trong tài khoản là bao nhiêu mà dám khẳng định tài khoản mà người được THA cung cấp là không có tiền!.

Tương tự như vậy, trong trường hợp 2 thì người dân hiểu đối với chiếc xe máy, người yêu cầu THA chỉ cung cấp biển số chiếc xe mà bên phải yêu cầu thường sử dụng và biết chắc rằng chiếc xe đó thuộc quyền sở hữu của bên phải THA. Tuy nhiên, cơ quan THA lại cho rằng chừng đó vẫn chưa đủ, bên yêu cầu phải cung cấp giấy chứng nhận đăng ký xe đứng tên B.

Hai cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề mà hiện nay chưa được các cơ quan chức năng giải thích cặn kẽ, rõ ràng. Chúng ta ai cũng biết rằng trong cuộc “đấu khẩu” này phần thắng luôn thuộc về các cơ quan nhà nước, cụ thể là cơ quan THA. Thật vậy, cả hai trường hợp 1 và 2 trên đây thông tin tài sản THA do bên yêu cầu đưa ra đều bị từ chối vì lý do như đã phân tích.

Vấn đề đặt ra là cách hiểu nào đúng?

Có hai quan điểm về vấn đề này.

Quan điểm 1 cho rằng cơ quan THA làm như vậy là đúng theo quy định, đúng theo tinh thần cải cách tư pháp là giảm thiểu tối đa trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tố tụng dân sự nói chung cũng như trong THA dân sự nói riêng.

Quan điểm thứ 2 cho rằng cơ quan THA làm như vậy là sai, thông tin mà đương sự trong hai trường hợp cung cấp đã là quá đủ, từ đó cơ quan THA phải tự thực hiện việc điều tra và áp dụng các biện pháp luật cho phép để thi hành bản án.

Tác giả bài viết theo quan điểm thứ hai. Phân tích sau đây sẽ làm sáng tỏ điều này.

Một là dựa vào chính câu chữ của điều luật để xem hiểu thế nào là sát nghĩa đối với câu “Người yêu cầu THA phải cung cấp thông tin về tài sản hoặc điều kiện THA của người phải THA”.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì “thông tin” là thông báo, tin tức về một đối tượng liên quan. Nghĩa là thông báo cho ai đó về tin tức của một đối tượng nào đó mà các bên quan tâm. Tùy từng trường hợp đối tượng cần cung cấp thông tin là gì mà nội dung của thông tin sẽ tương ứng. Mức độ khác hơn, cụ thể hơn về một vấn đề so với thông tin là “đặc điểm” của vấn đề đó. Đặc điểm cũng là thông tin về sự vật, hiện tượng đó nhưng ở mức độ sâu hơn, cụ thể hơn, toàn vẹn hơn và mang tính riêng biệt hơn so với thông tin.

Ví dụ: “Thông tin về trận bóng đá trên sân TP. HCM do cộng tác viên cung cấp thì tính đến cuối hiệp một của trận đấu, Navibank Sài Gòn đang tạm dẫn trước HAGL với tỉ số 1-0”.

Nó hoàn toàn khác với việc một bình luận viên ngồi trực tiếp thuyết minh qua sóng toàn bộ diễn biến trên sân cho khán thính giả. Cả hai trường hợp đều cho người nghe gián tiếp như chúng ta thông tin về trận bóng nhưng trường hợp 1 là thông tin về trận đấu, còn trường hợp hai không thể gọi là thông tin về trận đấu mà là toàn bộ diễn biến trận bóng.

Phân tích như vậy để thấy rằng nội hàm của từ “thông tin” hoàn toàn khác với nội dung của sự việc. Do vậy trong hai trường hợp trên bên yêu cầu THA đều cung cấp được cho cơ quan THA “thông tin về tài sản hoặc điều kiện THA của người phải THA”. Thông tin của tài khoản bao gồm tên chủ tài khoản, số tài khoản, ngân hàng quản lý tài khoản. Tương tự như vậy, thông tin của một chiếc xe gắn máy chỉ dừng lại ở mức biển số xe, chủ sở hữu xe.

Hai là nếu luật yêu cầu phải hiểu thuật ngữ “thông tin” như cách hiểu của cơ quan THA là đúng thì quả thật hiện nay đó là một sự “vênh” nhau quá lớn giữa kỹ thuật làm luật và trình dộ dân trí của nhân dân. Đặt trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam khi một đất nước khoảng 90 triệu dân nhưng trên 50% là người dân nông nghiệp, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp. Như vậy chúng ta phải ngẫm lại xem luật đặt ra yêu cầu như vậy có quá cao so với người dân Việt Nam?.

Triết học Mác-Lênin đã chỉ rõ luật là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, phản ánh nội dung, các vấn đề phát sinh từ hạ tầng cơ sở cũng như điều chỉnh ngược trở lại đối với chính các quan hệ phát sinh từ hạ tầng cơ sở. Mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và hạ tầng cơ sở luôn là một vấn đề mấu chốt, quan trọng khoa học nói chung. Điều đó cho thấy chúng ta không nên yêu cầu quá cao đối với người dân, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

Ba là cứ cho là hiện nay còn hai cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là “quả bóng trách nhiệm” bị đá về cho người dân. Chúng ta đi đâu, đến cơ quan nhà nước nào cũng nhìn thấy khẩu hiệu học tập 13 điều xử thế mà Bác Hồ kính yêu đã dạy cho cán bộ. Trong đó có các điều như “Nguyên tắc quá hay lỡ việc”, “cái gì lợi nhất, tốt nhất cho dân thì nên làm”, “Cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân”.... Liệu chăng cách xử lý như hai trường hợp trên của cơ quan THA có đúng với lời khuyên của Bác?.

Trên đây chỉ là phân tích, ý kiến, quan điểm của tác giả dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn để cho rằng cách xử lý của cơ quan THA trong trường hợp trên là không thỏa đáng. Không dừng lại ở đó, phần phân tích dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn rằng không thể yêu cầu người dân làm theo cách hiểu của cơ quan THA bởi chính từ sự chồng chéo, không nhất quán giữa các qui định của pháp luật có liên quan.

Lấy trường hợp 1 trên đây làm ví dụ.

Công ty A chỉ có thể cung cấp thông tin tài khoản của công ty bảo hiểm B. Bởi lẻ công ty A chỉ có một cách duy nhất là dựa vào mối quan hệ thương mại bấy lâu, dựa vào hợp đồng để cung cấp thông tin về tài khoản. Mà dựa vào kênh này thì thông tin chỉ dừng lại ở đó, không thể có thông tin về số dư tài khoản. Ngoài ra chỉ còn một kênh duy nhất để biết chính xác số dư tài khoản tính đến thời điểm yêu cầu THA là yêu cầu Ngân hàng nơi công ty bảo hiểm mở tài khoản cung cấp.

Pháp luật có độ vênh

Điều 6 Nghị định 58 quy định “Người yêu cầu THA có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện THA. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được THA hoặc người được người THA ủy quyền có yêu cầu...”

Tuy nhiên, đây có thể nói là một nhiệm vụ bất khả thi đối với một người thứ ba nào khác ngoài các cơ quan quyền lực nhà nước như công an, tòa án, THA. Thật vậy, hiện nay vấn đề về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng được điều chỉnh bởi Nghị định 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 (“Nghị định 70”). Theo đó, khoản 4, Điều 5, Nghị định 70 quy định những cơ quan, chủ thể có quyền được cung cấp thông tin về tài khoản, trong đó có số dư tài khoản thì không hề có tên “người được THA hoặc người được người được THA ủy quyền.”

Khổ nổi, các ngân hàng cũng như những người làm việc tại các Ngân hàng không hề quan tâm đến Nghị định 58 kia mà đối với họ thì gần gũi nhất, quen thuộc nhất cũng như quan trọng nhất vẫn là Nghị định 70 mặc dù cả hai đều là Nghị định, có hiệu lực tương đương nhau, thậm chí Nghị định 58 phải được tôn trọng hơn bởi lẻ nó được ban hành sau Nghị định 70.

Tuy nhiên, chỉ chừng đó thôi cũng đủ làm cho bên được THA “chán chường”. Lý do mà các ngân hàng đưa ra để từ chối việc xác nhận số dư tài khoản thì có thể nói là vô số, lần đầu tiên đến thì “để chúng tôi có thời gian nghiên cứu hồ sơ”, lần tiếp theo thì “xếp bận công tác một tuần”, hết tuần thì “hôm nay xếp đi họp”, lần tiếp theo thì “để chúng tôi hỏi tổng công ty mẹ”, ...

Pháp luật quy định nữa vời

Điểm tiến bộ mới của Nghị định 58 có thể kể đến là quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin về tài sản hoặc điều kiện THA mà cố tình cung cấp thông tin sai sự thật.

Điều 6, khoản 1 Nghị định 58 quy định “trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện THA của người phải THA thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật..”. Cứ nghĩ quy định trên là tuyệt vời nhằm tăng tính răn đe, tăng hiệu lực áp dụng của quy định. Tuy nhiên nhìn kỹ quy định này thì lại có thêm một điều không may nữa đến với người được THA. Bởi lẻ với quy định này thì các Ngân hàng không cung cấp thông tin thì cũng không có “vấn đề” gì. Luật chỉ quy định là “...cố tình cung cấp thông tin sai sự thật...” chứ đâu có quy định là “...không cung cấp thông tin ....”.

Mặt khác, quy định này chỉ là quy định “chơi”, theo kiểu “quy định cho có” mà thôi bởi không biết bao giờ mới có thể bắt một ngân hàng bồi thường vì đã “cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về tài sản của người phải THA”.

Bên cạnh đó, đối với các Ngân hàng, cái mà họ kinh doanh chính là niềm tin của khách hàng, mà ở đây chính là những doanh nghiệp có tài khoản tại Ngân hàng. Họ xem khách hàng là những “cục cưng” thì một “người dưng” làm sao có đủ khả năng làm cho Ngân hàng “quay lưng” với khách hàng mặc dù họ thừa biết rằng luật quy định như vậy. Nói như một cán bộ trong ngành THA thì “luật quy định như vậy chẳng khác nào đánh đố người dân, bản thân chúng tôi là những người của cơ quan có thẩm quyền mà khi làm việc với các ngân hàng cũng bị hành hạ huống chi là ....”.

Qua phần phân tích trên đây có thể thấy hiện nay, các quy định mới về THA dân sự nói riêng cũng như các quy định của pháp luật nói chung đã và đang ban hành được dựa theo tinh thần cải cách tư pháp, quy định nặng trách nhiệm của các đương sự có liên quan.

Quy định này là tốt, là phù hợp với tình hình hiện nay, nhất là việc hạn chế tối đa sự can thiệp quá sâu của “bàn tay” cán bộ vào công việc riêng của các bên. Tuy nhiên, các quy định cũng cần thiết phải cân nhắc thật kỹ các yếu tố có liên quan, nhất là đối tượng áp dụng, điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Hơn nữa, hiện nay cần thiết phải có sự hướng dẫn chính xác, rõ ràng để tránh sự vận dụng, áp dụng tùy tiện của các chủ thể có liên quan.

Trong sự tùy tiện và không rõ ràng đó thì lúc nào phần thắng cũng thuộc về các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Và đây cũng chính là mầm mống cho sự quan liêu, hách dịch, cửa quyền và tiêu cực có thể phát sinh.

Các kiến nghị

Trên đây là một thực trạng nhức nhối đang tồn tại trong lĩnh vực THA. Mặc dù Luật THA vừa mới có hiệu lực nhưng rất nhiều các vấn đề phát sinh và cần phải có biện pháp giải quyết triệt để. Tác giả xin đưa ra 3 biện pháp sau đây hy vọng sẽ giải quyết tốt thực trạng này.

Một là: Về phía các cơ quan chức năng cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về các vấn đề nêu trên.

Hai là: về phía các cơ quan, tổ chức liên quan đang nắm giữ, quản lý tài sản liên quan đến việc THA phải tổ chức tuyên truyền, nắm vững các quy định của pháp luật về THA. Cần hiểu rằng việc cung cấp thông tin cho người được THA khi họ có yêu cầu là một việc làm hết sức bình thường và tuân thủ pháp luật. Việc cung cấp thông tin này không đồng nghĩa với việc vi phạm nghĩa vụ với khách hàng bởi lẻ đây là hành động tuân thủ pháp luật. Không bao giờ phải chịu các hệ lụy xấu từ việc thực hiện đúng luật.

Ba là: các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc THA cần hiểu rõ, vận dụng các quy định của pháp luật để thực hiện quyền của mình.

Võ Công Nhị (Chuyên gia pháp lý)