Về trung hạn, theo dự báo của WB, tăng trưởng của Việt Nam sẽ đi theo xu hướng toàn cầu, tức giảm xuống mức 6,6% và 6,5% cho các năm 2019 và 2020. Lạm phát vẫn được duy trì thấp, ở mức 4% do chính sách tiền tệ vẫn được thắt chặt.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra rằng triển vọng trên vẫn tiềm ẩn những rủi ro đang tích tụ, theo hướng xấu đi.
Trong bối cảnh thương mại Việt Nam có độ mở cao, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ còn hạn chế, Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động bên ngoài. Căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang có thể dẫn đến suy giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời thanh khoản trên toàn cầu bị thắt chặt có thể làm giảm dòng vốn đầu tư cũng như đầu tư nước ngoài.
Trong nước, cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng chậm lại có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng và gia tăng các nghĩa vụ cho khu vực công.
“Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, căng thẳng thương mại đang diễn ra và rủi ro tài chính tăng cao đang che mờ triển vọng toàn cầu”, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam Sebastian Eckardt nhận định.
Ông Eckardt cho rằng là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì chính sách tiền tệ có khả năng ứng phó, tỉ giá linh hoạt và bội chi ngân sách thấp để nâng cao khả năng chống chịu những cú sốc có thể diễn ra.
Về căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam, ông Sebastian Eckardt nhận định dù có một số yếu tố hưởng lợi với khả năng tăng xuất khẩu sang Mỹ trong xu hướng chuyển dịch thương mại, song ngược lại, có những tác động xấu do yếu tố bất định tăng lên, thương mại, đầu tư và nhu cầu trên toàn cầu suy giảm.
Trong bối cảnh Hiệp định Hợp tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam – EU (EVFTA) vừa được thông qua, báo cáo Điểm lại có một chuyên đề tập trung vào việc đơn giản hoá các biện pháp phi thuế quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.
Báo cáo nhận định rằng mặc dù thuế quan đang giảm nhanh nhưng số lượng các biện pháp phi thuế quan lại đang tăng lên. Mức thuế ưu đãi bình quân của Việt Nam đã giảm từ 13,1% năm 2003 xuống còn 6,3% năm 2015.
Ngược lại, số biện pháp phi thuế quan lại tăng lên đến 20 lần trong cùng kỳ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các biện pháp phi thuế quan, nếu được thiết kế và triển khai không tốt, có thể gây hạn chế thương mại, làm méo mó giá cả, và suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia.
Báo cáo cũng lưu ý rằng hệ thống các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp, chưa rành mạch và tốn kém, dẫn đến chi phí tuân thủ cao. Một nghiên cứu đưa ra ước tính rằng thuế quan trị giá tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ mà Việt Nam đang áp cho hàng nhập khẩu hiện ở mức 16,6% so với mức bình quân là 8,3% ở các quốc gia ASEAN.