Trong đó, chỉ số Nộp thuế (Paying Taxes) xếp thứ 86/190 (tăng 81 bậc so với DB2017) và đây là năm thứ 4 liên tiếp các cải cách về thuế được ghi nhận trong Báo cáo MTKD. Nếu so với các nước Asean 4 và Asean 6, Việt Nam đứng thứ 4, sau Singapore (thứ 7), Thailand (thứ 67), Malaysia (thứ 73).
Đánh giá về chỉ số Nộp thuế, WB đã căn cứ vào các tiêu chí như: Số giờ nộp thuế; Số lần nộp thuế trong năm; Tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; Chỉ số sau kê khai (hoàn thuế GTGT, thanh/kiểm tra thuế thu nhập doanh nghiệp - TNDN). Theo WB, hầu hết các chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước và được WB ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam trong cải thiện thủ tục nộp thuế, cụ thể:
Về thời gian nộp thuế: 498 giờ (trong đó thuế 351 giờ, BHXH 147 giờ); giảm được 42 giờ (Thuế giảm 0 giờ, BHXH giảm 42 giờ). Điều đáng chú ý là Báo cáo kết quả DB2018 của WB chưa ghi nhận một số cải cách về chính sách, TTHC thuế để giảm giờ nộp thuế mà Bộ Tài chính cũng như Tổng cục Thuế đã thực hiện trong năm 2015 - 2016.
Trên thực tế, số giờ nộp thuế của Việt Nam hiện chỉ còn 117 giờ/năm. WB cho rằng, những cải cách để giảm giờ nộp thuế trong các năm 2015 - 2016 mặc dù chưa được đánh giá trong DB2018, nhưng những cải cách mà ngành Thuế thực hiện đã góp phần tiết kiệm rất nhiều công sức, thời gian trong thực tế.
Những quy định góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho DN mà ngành Thuế đã thực hiện trong thời gian qua là: bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra kèm theo tờ khai thuế GTGT theo quy định tại Luật số 71/2014/QH13; một số quy định đơn giản hóa thủ tục về tính thuế GTGT, TNDN tại Thông tư 26/2015/TT-BTC và Thông tư 96/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính…
Về số lần nộp thuế trong năm: 14 lần, giảm 17 lần (trong đó thuế giảm được 6 lần, BHXH giảm được 11 lần).
Về tổng mức thuế suất trên lợi nhuận: 38,1% (thuế 13,2%, BHXH 24,8%), giảm 1,3% so với năm 2017 (năm 2017 là 39,4%), cụ thể là thuế TNDN giảm 1,2%, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất là 0,08%.
Về chỉ số Nộp thuế sau kê khai: Với những cải cách cơ bản đặc biệt trong quá trình thanh tra, kiểm tra và hoàn thuế GTGT của cơ quan thuế, kết quả đánh giá đối với chỉ số sau kê khai có những bước cải thiện đáng kể, đóng góp phần lớn vào kết quả tăng hạng của chỉ số Nộp thuế nói chung. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 99/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016 về hướng dẫn quản lý quỹ hoàn thuế GTGT và Thông tư 31/2017/TT-BTC ngày 18/4/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 99/2016/TT-BTC quy định thời gian Kho bạc hoàn trả tiền hoàn thuế cho DN trong thời hạn 1 ngày kể từ khi nhận được quyết định hoàn của cơ quan thuế.
Từ 4 chỉ số thành phần trên, với những cải cách cơ bản đặc biệt trong quá trình thanh tra, kiểm tra và hoàn thuế, kết quả điểm số DTF của chỉ số Nộp thuế của Việt Nam là 72.77 và Kết quả xếp hạng chỉ số Nộp thuế chung của Việt Nam là 86/190 quốc gia và vùng lãnh thổ (tăng 81 bậc so với DB 2017) và đứng thứ 4 trong nhóm nước ASEAN 6
Theo WB, kết quả này đã khẳng định những nỗ lực cải cách hành chính của ngành Thuế trong những năm qua. Ngành Thuế đã triển khai cải cách cả về thể chế và công tác quản lý thuế: Thứ nhất, về công tác hoàn thiện thể chế, đã ban hành các văn bản để góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mà ngành Thuế đã thực hiện trong thời gian qua. Thứ hai, về cải cách TTHC thuế, ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống thuế: Rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa và chuẩn hóa TTHC: ngành Thuế luôn yêu cầu cải cách TTHC ngay trong quá trình xây dựng thể chế, qua đó kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới TTHC, thực hiện nghiêm việc rà soát, chuẩn hóa TTHC theo quy định.
Năm 2016, Tổng cục Thuế trình Bộ Tài chính ban hành mới 07 TTHC và bãi bỏ 92 TTHC. Đồng thời, trình Bộ Tài chính ban hành Quyết định 1500/QĐ-BTC về chuẩn hóa các TTHC lĩnh vực thuế. Theo đó, tính đến hết năm 2016, số TTHC lĩnh vực thuế giảm từ 385 xuống còn 300, giảm 85 TTHC so với thời điểm 31/12/2015 (đạt tỷ lệ cắt giảm, đơn giản hóa 22,1%), 300 TTHC đã được chuẩn hóa theo quy định.