Vướng mắc về miễn trách nhiệm hình sự khi có sự thay đổi về pháp luật
(PLVN) - Trong tiến trình phát triển của xã hội, pháp luật hình sự không phải là bất biến mà thường xuyên được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu quản lý, bảo vệ trật tự xã hội và quyền con người. Nhiều hành vi từng bị coi là tội phạm trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đến khi bối cảnh thay đổi, lại được loại trừ khỏi phạm vi hình sự hóa. Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được luật hình sự điều chỉnh, nay lại được bổ sung do tính nguy hiểm gia tăng.
Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những chế định quan trọng của BLHS, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, đồng thời phản ánh tính biến động của pháp luật hình sự gắn liền với sự phát triển của đời sống xã hội. Khi có sự thay đổi về pháp luật, đặc biệt là trong trường hợp hành vi không còn bị coi là tội phạm hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội được đánh giá lại, vấn đề miễn TNHS trở nên thiết thực.
Từ góc nhìn chính sách hình sự hiện đại, pháp luật không chỉ trừng trị mà còn tự hiệu chỉnh trước những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội. Khi chính sách cũng như pháp luật đổi thay theo hướng coi một số hành vi không còn đủ mức nguy hiểm để xử lý hình sự (phi tội phạm hóa, nâng ngưỡng định lượng, thu hẹp cấu thành…) thì người đã thực hiện hành vi trước đó cần được thụ hưởng sự thay đổi ấy. BLHS 2015 đã hiến định hóa cơ chế này bằng hai trục quy phạm:
Thứ nhất: Nguyên tắc có lợi (lex mitior) tại Điều 7; Thứ hai: Miễn TNHS khi có sự thay đổi pháp luật tại điểm a khoản 1 Điều 29.
Hai trục này được kích hoạt trong thi hành nhờ Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội, bảo đảm quyền lợi cho người phạm tội, kể cả đối với hành vi xảy ra trước 00h ngày 01/01/2018 nhưng sau thời điểm này mới bị phát hiện hoặc đang trong tố tụng hoặc thi hành án.
Trong bối cảnh đó, nguyên tắc áp dụng pháp luật hình sự có lợi cho người phạm tội (Điều 7 BLHS 2015) và chế định miễn TNHS (Điều 29 BLHS 2015) trở thành công cụ pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm công bằng, nhân đạo. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, đặc biệt là khi có sự thay đổi pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định ranh giới, điều kiện và phạm vi miễn TNHS.
Một số trường hợp thay đổi về chính sách pháp luật
Phi tội phạm hóa: BLHS 2015 đã bãi bỏ tội “kinh doanh trái phép” quy định tại Điều 159 BLHS 1999. Theo đó, những hành vi từng bị coi là tội phạm trước đây, nếu không được tái cấu trúc sang một tội danh khác trong BLHS 2015 thì nay không còn là tội phạm. Với các vụ việc đã khởi tố hoặc đang được xem xét, cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng nguyên tắc có lợi, đình chỉ và miễn trách nhiệm hình sự cho người thực hiện hành vi.
Nâng ngưỡng định lượng: Một thay đổi quan trọng của BLHS 2015 là nâng mức định lượng cấu thành tội phạm. Điển hình là tội trộm cắp tài sản: nếu như Điều 138 BLHS 1999 quy định ngưỡng từ 500.000 đồng thì đến BLHS 2015 (Điều 173) con số này đã được nâng lên 2.000.000 đồng, trừ trường hợp đặc biệt. Điều đó có nghĩa, những hành vi xảy ra trước ngày 01/01/2018 với giá trị tài sản khoảng 800.000 đồng, nếu không thuộc trường hợp đặc biệt sẽ không còn đủ căn cứ để xử lý hình sự. Khi đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét miễn trách nhiệm hình sự hoặc không khởi tố theo Điều 29 và Điều 7 BLHS 2015, kết hợp với Nghị quyết 41/2017/QH14.
Thu hẹp phạm vi cấu thành: Một số tội danh trong BLHS 2015 được điều chỉnh theo hướng nhân đạo: hình phạt tối đa giảm hoặc phạm vi cấu thành bị thu hẹp, chẳng hạn xu hướng hạn chế áp dụng tù chung thân ở tội buôn lậu. Không phải trường hợp nào cũng dẫn tới việc “hành vi không còn nguy hiểm” nhưng nếu do thay đổi cấu thành mà hành vi không còn đáp ứng dấu hiệu của tội phạm thì thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS, tức là miễn trách nhiệm hình sự.
Thời gian gần đây, dư luận quan tâm đến vụ án ông Thái Khắc Thành bị xét xử vì nuôi và buôn bán 13 cá thể gà lôi trắng, hành vi bị khởi tố theo Điều 244 BLHS 2015. Trong vụ việc này, hành vi nuôi và buôn bán gà lôi trắng bị khởi tố theo Điều 244 BLHS khi loài này còn thuộc nhóm IB (cấm khai thác tuyệt đối). Tuy nhiên, kể từ ngày 01/07/2025, theo Thông tư 27/2025/TT-BNNPTNT, gà lôi trắng đã được chuyển từ nhóm IB sang nhóm IIB, tức là phạm vi cấu thành tội phạm đã thu hẹp: hành vi liên quan đến gà lôi trắng không còn thỏa mãn dấu hiệu khách quan của tội danh như trước. Như vậy, đây là trường hợp thay đổi chính sách pháp luật dẫn đến hành vi “không còn nguy hiểm cho xã hội ở mức cần xử lý hình sự”. Do đó, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS 2015 để miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Vướng mắc trong thực tiễn
Chưa rõ ràng về tiêu chí “Không còn nguy hiểm”: Khái niệm “không còn nguy hiểm cho xã hội” vẫn thiếu sự chuẩn hóa. Theo logic của BLHS, mức độ nguy hiểm chính là ranh giới xác định hành vi có phải tội phạm hay không (Điều 8 BLHS). Khi pháp luật mới: (i) phi tội phạm hóa hành vi; hoặc (ii) nâng chuẩn định lượng, định tính lên cao hơn khiến hành vi không đạt ngưỡng; hoặc (iii) thu hẹp yếu tố khách quan trong cấu thành làm hành vi không còn phù hợp với mô tả tội danh, thì tại thời điểm áp dụng, hành vi đó không còn nguy hiểm ở mức cần xử lý hình sự. Trong những trường hợp này, theo điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS, người thực hiện hành vi phải được miễn trách nhiệm hình sự.
Không liệt kê miễn TNHS là căn cứ không khởi tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng miễn trách nhiệm hình sự, tạo thành ba tầng lọc trong tố tụng. Nguyên tắc là ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu phát hiện căn cứ miễn trách nhiệm hình sự thì có thể chấm dứt ngay vụ án.
Tuy nhiên, vướng mắc hiện nay là BLTTHS chưa liệt kê miễn trách nhiệm hình sự là căn cứ để “không khởi tố” (Điều 157). Vì vậy, hầu hết vụ việc vẫn phải khởi tố rồi mới đình chỉ, gây thủ tục hình thức và tốn kém. Đây cũng là lý do nhiều ý kiến đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết hướng dẫn, cho phép không khởi tố ngay từ đầu nếu đã có đủ căn cứ xác định hành vi không còn là tội phạm theo luật mới.
Có phải khởi tố rồi mới miễn: Thực tiễn hiện nay còn tồn tại hai luồng quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải khởi tố vụ án, khởi tố bị can, sau đó mới ra quyết định đình chỉ. Lý do là Điều 157 BLTTHS quy định về căn cứ không khởi tố không hề liệt kê miễn TNHS. Do đó để bảo đảm đúng trình tự, phải khởi tố theo Điều 18 BLTTHS (nghĩa vụ khởi tố khi có dấu hiệu tội phạm) rồi sau đó đình chỉ theo Điều 230 hoặc 248 BLTTHS.
Quan điểm thứ hai lại thiên về sự tinh gọn, hiệu quả: nếu đã có đủ căn cứ khẳng định người thực hiện hành vi thuộc diện miễn TNHS theo điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS thì không cần thiết phải khởi tố. Việc khởi tố rồi đình chỉ chỉ làm phát sinh thêm thủ tục rườm rà, gây tốn kém và có thể tạo ra tâm lý bất lợi không đáng có cho công dân.
Nếu cùng hành vi, nhưng mỗi bị can có mốc thời gian tham gia khác nhau hoặc chỉ một số hành vi thoát cấu thành theo luật mới, cơ quan tiến hành tố tụng có thể đình chỉ từng phần (đối với từng bị can) dựa trên căn cứ miễn TNHS, phần còn lại tiếp tục giải quyết. BLTTHS cho phép đình chỉ đối với từng bị can hoặc Tòa đình chỉ một phần khi VKS rút một phần quyết định truy tố.
Chứng cứ về thời điểm thực hiện hành vi và thời điểm hiệu lực: Để áp dụng điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS, điều kiện tiên quyết là xác định chính xác thời điểm thực hiện hành vi, từ đó đối chiếu với thời điểm luật mới có hiệu lực. Sau đó, phải làm rõ nội dung thay đổi của pháp luật, có thể là bỏ tội danh, nâng ngưỡng định lượng hay thu hẹp cấu thành và xem xét mức độ tác động đến hành vi đã xảy ra. Đặc biệt, với những hành vi kéo dài hoặc tiếp diễn, cơ quan tiến hành tố tụng cần phân định rạch ròi giai đoạn trước và sau ngày luật mới có hiệu lực. Việc này nhằm tránh tình trạng “trộn hiệu lực” dẫn đến áp dụng sai căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.
Quan hệ với trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Miễn TNHS không mặc nhiên xóa bỏ nghĩa vụ bồi thường. Cơ quan tiến hành tố tụng cần tuyên rõ đường lối xử lý để tránh hiểu nhầm rằng miễn TNHS tương đương vô trách nhiệm dân sự. Thực tiễn các vụ án về tai nạn giao thông cho thấy khâu hòa giải, bồi thường diễn ra đồng thời với miễn TNHS (khoản 3 Điều 29) nhưng với điểm a khoản 1 Điều 29 thì phần dân sự vẫn có thể tách để giải quyết.
Thống nhất nhận thức về thẩm quyền miễn: Nhiều ý kiến nghiên cứu cho rằng Viện kiểm sát giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ giữa buộc tội và miễn trách nhiệm hình sự. Cơ quan này không chỉ có quyền quyết định đình chỉ vụ án mà còn có thể hủy hoặc khôi phục điều tra nếu việc miễn TNHS được áp dụng sai căn cứ. Do đó, cần quán triệt rõ trách nhiệm kiểm sát để bảo đảm các quyết định miễn TNHS được thực hiện đúng pháp luật và thống nhất trong toàn hệ thống tố tụng.
Một số kiến nghị
Thứ nhất, cần có Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về Điều 29 BLHS, đặc biệt đối với điểm a khoản 1 tại Điều này. Nghị quyết nên đưa ra tiêu chí cụ thể thế nào là “thay đổi chính sách, pháp luật” đủ để hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội, chẳng hạn như trường hợp phi tội phạm hóa, nâng ngưỡng định lượng hay thu hẹp cấu thành tội phạm.
Thứ hai, cần làm rõ trình tự áp dụng: trong trường hợp đã xác định rõ ràng hành vi không còn là tội phạm thì có thể không khởi tố ngay từ đầu, nếu đã khởi tố thì phải đình chỉ kịp thời theo Điều 230, 248 hoặc 282 BLTTHS.
Thứ ba, cần chuẩn hóa kỹ thuật áp dụng Nghị quyết 41/2017/QH14 và Điều 7 BLHS. Cụ thể, nên ban hành hướng dẫn nghiệp vụ liên ngành (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) về việc rà soát hồ sơ tồn khi có thay đổi định lượng, định tính trong luật mới, ví dụ như ngưỡng giá trị tài sản trong các tội về kinh tế, tài sản.
Thứ tư, phải đảm bảo thống nhất nhận thức: phân biệt rạch ròi giữa miễn TNHS và miễn hình phạt; giữa miễn TNHS do thay đổi pháp luật và miễn TNHS do chuyển biến tình hình; giữa đình chỉ và không khởi tố nhằm tránh tạo ra những vòng tròn tố tụng không cần thiết.
Cuối cùng, cần tăng cường đào tạo, tập huấn cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán về kỹ năng xác định hiệu lực thời gian của văn bản pháp luật và đối chiếu cấu thành tội danh sau khi luật mới có hiệu lực. Song song đó, nên xây dựng sổ tay tình huống (casebook) về miễn TNHS theo điểm a khoản 1 Điều 29 để làm công cụ tham khảo thống nhất.