Từ khi có Luật Kiểm toán Nhà nước (KTNN), KTNN đã kiến nghị và xử lý tài chính 70.597 tỷ đồng (2006- 2010), bằng 78,36% tổng số kiến nghị xử lý tài chính trong cả 16 năm. Tuy nhiên, con số này còn có thể lớn hơn nếu Luật KTNN bao quát hơn trong việc quy định kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tài sản nhà nước (NN).
Kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2008 của FPT, KTNN đã kiến nghị tăng thu NSNN 10,7 tỷ đồng. Ảnh: MH |
Đây là một trong những vấn đề được đưa ra tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Luật KTNNN và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật KTNN do KTNN tổ chức hôm qua, 28/2.
Thất thoát lớn từ doanh nghiệp nhà nước nắm giữ tỷ lệ vốn nhỏ
Năm 2009, KTNN Việt Nam phối hợn với KTNN LB Nga cùng thực hiện kiểm toán (KT) Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro. Đây là đơn vị liên doanh với số vốn đầu tư của 2 bên tương đối lớn, trong đó phía Việt Nam nắm giữ 49% vốn. Chỉ riêng về kết quả tài chính, kết quả KT của KTNN Việt Nam đưa ra và được 2 bên nhất trí thực hiện là tăng nộp cho NSNN Việt Nam 11,9 triệu USD tiền thuế GTGT và các khoản thuế liên quan.
Năm 2009, thực hiện KT chuyên đề bù lỗ các mặt hàng dầu giai đoạn 2006- 2008, KTNN đã tiến hành KT cấp chuyên đề cấp bù lỗ đối với Cty XNK Thanh Lễ là đơn vị không có vốn đầu tư của NN nhưng là DN đầu mối thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu và là đối tượng được cấp bù lỗ từ NSNN. Kết quả KT đã kiến nghị giảm cấp bù lỗ từ NSNN 6.590 triệu đồng.
Kết quả KT năm 2009 với Báo cáo tài chính năm 2008 của Cy CP FPT (NN chỉ đầu tư 7,5% vốn điều lệ) theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, KTNN đã chỉ ra những bất cấp trong hệ thống quản trị nội bộ của DN và hệ thống quản trị tính thuế, kiến nghị tăng thu NSNN 10,7 tỷ đồng, đồng thời kiến nghị UBND TP Đà Nẵng thu hồi hoặc tính tiền thu về sử dụng đất 4.100 m2 đất…
“Vùng tối" pháp lý
Theo ông Nguyễn Hồng Long, KT trưởng KTNN chuyên ngành VI, kết quả KT từ các đơn vị NN không nắm giữ 50% vốn điều lệ trở lên cũng rất lớn, có gíá trị cao, tuy nhiên theo quy định của luật hiện hành, đối tượng KT thuộc lĩnh vực DN nếu không có yêu cầu của UBTVQH, Chính phủ … thì chỉ gói gọn trong phạm phi các DNNN (DN mà NN sở hữu trên 50% vốn điều lệ theo quy định Luật DN 2005), trong khi thực tế không ít DN thuộc đối tượng không phải DNNN nhưng có giá trị tuyệt đối đầu tư vốn NN rất lớn và có đơn vị NN không nắm giữ vốn, nhưng thực hiện dịch vụ có sử dụng nguồn NSNN.
“Thực trạng này cho thấy việc kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tài sản NN chưa chặt chẽ và không đầy đủ, thiếu bao quát và rộng khắp…”- ông Long nhận xét.
Theo ông Long, xét về giác độ kinh tế, việc nắm giữ quyền sở hữu trên 50% vốn điều lệ và giữ quyền chi phối không phải là yếu tố quyết định trong thực hiện nhiệm vụ kiểm soát một cách hiệu quả quản lý, sử dụng vốn và tài sản NN tại DN.
Thực tế cho thấy, nếu xét trên giá trị tuyệt đối của giá trị tài sản, tiền vốn mà NN đầu tư cho nhiều DN “không phải là DNNN” có thể rất lớn trong khi nhìn dưới góc độ tỷ lệ tương đối về nắm giữ tiền vốn trong các DN này lại rất nhỏ (Ví dụ NN nắm giữ 238 tỷ đồng vốn cổ phẩn trong khi tỷ lệ góp vốn chỉ chiếm 7,5% vốn điều lệ tại Cty CP FPT; EVN đầu tư góp vốn vào Ngân hàng TMCP An Bình là 32,65% nhưng số vốn góp lên tới 751,3 tỷ đồng; trong khi đó Cty CP xây lắp điện lực vốn NN chiếm 51% chỉ là 10,2 tỷ đồng…).
“Nếu chỉ lấy tiêu chí số tỷ lệ tương đối làm căn cứ để ra quyết định KT vốn và tài sản NN là chưa thực sự hợp lý và thỏa đáng. Về mặt luật pháp và chính sách nếu không được điều chỉnh sẽ tạo ra những khoảng trống hay “vùng tối” trong việc NN để mất vai trò khi sử dụng các công cụ công để kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử dụng vốn và tài sản NN tại các DN nói chung…”- ông Long phát biểu.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung
Ngoài đề xuất thêm nhiệm vụ KT thuế, KT nợ công tại Điều 5 Luật KTNN hiện hành, nhiều ý kiến cho rằng cần phải xác lập nguyên tắc: Ở đâu có quản lý, sử dụng vốn của NN, ở đó cần có sự kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, vốn của NN. Công tác kiểm tra, giám sát phải do cơ quan KTNN thực hiện và chịu trách nhiệm về việc lựa chọn các đơn vị KT thuộc lĩnh vực DN.
Cũng có ý kiến cho rằng trong trường hợp phải quy định quy mô vốn đầu tư của NN để khoanh vùng phạm vi KT, Luật nên quy định cả mức tỷ lệ tương đối (ví dụ như khoảng từ 30%vốn trở lên) và/hoặc quy định cả số tuyệt đối vốn đầu tư của NN vào các DN (ví dụ 100 tỷ đồng trở lên) nhằm tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát của NN thông qua hoạt động KTNN…
Thanh Lan