Cũng liên quan tới vụ án, mới đây, TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã ra Quyết định sửa chữa bổ sung bản án sau khi tuyên do “nghe nhầm” quan điểm của đại diện VKS.
Tòa sửa bản án do “nghe nhầm”
Theo đó, trong thời kỳ hôn nhân, bà Hoàng Thị Thu Hằng và ông Trần Nguyễn Phúc Vũ (cùng ngụ tại Đà Nẵng) có tạo lập được khối tài sản chung là lô đất số hiệu 28.B2.14.
Ngày 6/11/2012, bà Hằng và ông Vũ thỏa thuận chia tài sản sau ly hôn. Thỏa thuận được xác lập bằng văn bản công chứng số 001274 tại Phòng công chứng Quốc Thái (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng).
Theo đó, bà Hằng được là chủ sử dụng lô đất nói trên. Đổi lại, bà phải trả cho ông Vũ 300 triệu đồng sau khi đã trừ một khoản nợ khác. Hai bên thống nhất giá trị lô đất là 1 tỷ đồng.
Theo ông Vũ, đến nay, bà Hằng chưa trả số tiền theo thỏa thuận. Nhưng ngày 27/9/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường TP.Đà Nẵng vẫn cấp GCN QSD lô đất cho riêng bà Hằng.
Điều đáng nói, trước đó, Văn phòng đăng ký đất đai quận Ngũ Hành Sơn đã từ chối cấp sổ đỏ, yêu cầu bà Hằng bổ sung giấy tờ chứng minh đã trả cho ông Vũ 300 triệu đồng
Phát hiện việc cấp sổ trái quy định khi bà Hằng chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ trả tiền, năm 2016, ông Vũ khởi kiện yêu cầu chia lại đối với phần tài sản là lô đất 28.B2.14 và yêu cầu hủy GCN QSDĐ đã cấp cho bà Hằng.
Ngày 17/10/2016, TAND quận Ngũ Hành Sơn có thông báo thụ lý đơn kiện số 127, sau đó chuyển đến Tòa án thành phố giải quyết theo thẩm quyền.
Cùng thời điểm này, nhận thấy việc chuyển nhượng đất đang tranh chấp là sai quy định pháp luật, bà Hằng đã nộp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng và đề nghị ngăn chặn không cho sang tên sổ đỏ.
Theo bản án sơ thẩm số 18/2017/HNGĐ-ST, TAND TP.Đà Nẵng buộc bà Hằng thanh toán cho ông Vũ 300 triệu đồng theo thỏa thuận chia tài sản giữa bà Hằng và ông vũ lập năm 2012 và 123.900.000 tiền lãi suất. Tổng cộng bà Hằng phải trả cho ông Vũ 423.900.000.
Sau phiên sơ thẩm, ông Vũ kháng cáo toàn bộ bản án; bà Hằng kháng cáo yêu cầu tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng đất số 12.883 ngày 25/10/2016 giữa bà Hằng và một người khác.
Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm |
Tuy nhiên, bản án dân sự phúc thẩm số 01/2018/HNGĐ-PT của TAND cấp cao tại Đà Nẵng lại buộc bà Hằng trả cho ông Vũ hơn 1 tỷ đồng, bất chấp thỏa thuận hợp pháp đã được xác lập bằng văn bản công chứng số 001274 ngày 6/11/2012 đang có hiệu lực.
HĐXX phúc thẩm cũng không chấp nhận hủy GCN QSDĐ đã cấp trái quy định cho bà Hằng.
Đáng nói, đất đang tranh chấp thì không được công chứng chuyển nhượng, nhưng tòa không chấp nhận yêu cầu vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng trái luật.
Sau khi ban hành bản án phúc thẩm số 01/2018/HNGĐ-PT ngày 16/1/2018, đến ngày 2/2/2018, TAND cấp cao tại Đà Nẵng “bất ngờ” ra Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm số 27/2018/QĐ-SCBSBA với lý do “nghe nhầm” quan điểm của đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về căn cứ tính tiền và số tiền buộc phải trả cho ông Vũ.
Theo đó, tòa sửa bản án, buộc bà Hằng trả cho ông Vũ số tiền 1.095.000.000 đồng thay vì 1.560.000.000 đồng như bản án đã tuyên.
Nhận thấy bản án không công bằng, vi phạm nghiêm trọng Luật tố tụng, bà Hằng gửi đơn đến TAND tối cao và VKSND tối cao xin được xem xét thủ tục giám đốc thẩm.
Trong đơn, bà Hằng cho rằng thỏa thuận giữa bà và ông Vũ được xác lập bằng văn bản công chứng số 001274 năm 2012 và đang có hiệu lực, nhưng HĐXX phúc thẩm không tôn trọng thỏa thuận hợp pháp này, ép buộc bà phải trả cho ông Vũ số tiền 1.095.000.000 đồng không hợp lý.
Có khuất tất trong cấp đất?
Điều ngạc nhiên hơn, cũng lô đất đang tranh chấp này, công chứng viên phòng công chứng số 2 (Đà Nẵng) lại thực hiện công chứng văn bản thỏa thuận tài sản riêng số 12.871 cho bà Đặng Thị Lãnh (ngụ Đà Nẵng) đối với lô đất 28.B2.14 do bà Hằng đang có quyền sử dụng và chưa chuyển nhượng.
Theo quy định của Luật đất đai 2013, tại điều 188, khoản 1, điểm b: đất đai đang tranh chấp thì không được chuyển nhượng.
Luật công chứng 2014 cũng quy định các hành vi bị nghiêm cấm như “Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật…”.
Trong trường hợp này, lô đất 28.B2.14 đang tranh chấp tại tòa và GCN QSDĐ số CĐ 962078 cấp cho lô đất này đang bị yêu cầu hủy.
Tuy nhiên, tại văn bản số 49/CC2 ngày 7/6/2017 trình bày ý kiến về vụ án dân sự của Phó Trưởng phòng công chứng số 2, bà Nguyễn Thị Hạnh lại cho rằng, việc công chứng Hợp đồng chuyển nhượng số 12883 ngày 25/10/2016 được thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật và theo các giấy tờ hợp lệ do người tham gia hợp đồng xuất trình.
Năm 2014, Văn phòng Đăng ký Đất đai quận Ngũ Hành Sơn đã trả lại hồ xin cấp sổ đỏ do thiếu thủ tục pháp lý |
Cũng theo bà Hạnh, trước khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Hằng, vợ chồng bà Đặng Thị Lãnh xác lập văn bản số 12.871 chỉ thỏa thuận về số tiền dùng vào việc nhận chuyển nhượng lô đất. Tuy nhiên, trong văn bản số 12.871 không hề ghi số tiền bao nhiêu.
Trong khi đó, bà Hằng bức xúc, nếu cho rằng chỉ công chứng số tiền nhận chuyển nhượng lô đất là tài sản riêng, tại sao không ghi rõ số tiền trong văn bản 12.871.
Đáng nói, lô đất 28.B2.14 đáng giá hàng tỷ đồng nhưng hợp đồng chuyển nhượng 12883 chỉ giả cách ghi nhận vỏn vẹn 400 triệu đồng. Mặt khác, lô đất 28.B2.14 là tài sản của bà Hằng và bà Hằng chưa chuyển nhượng cho ai, tại sao công chứng lại “đi trước một bước” để “khẳng định” sẽ là tài sản của bà Đặng Thị Lãnh.
Trả lời của Phó Trưởng phòng công chứng số 2 khiến dư luận hoài nghi, có hay không việc công chứng viên lách luật, “tạo điều kiện” thực hiện các giao dịch chuyển nhượng đất trái quy định của pháp luật?
Ông Vũ đã khiếu nại yêu cầu thu hồi GCN QSDĐ số CĐ 962078 đã cấp sai quy định và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, đến nay cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa có hướng giải quyết.
Bên cạnh đó, bà Hằng còn cho rằng trong vụ án này HĐXX đã sử dụng bút lục của một vụ án khác đã bị đình chỉ xét xử để làm bằng chứng căn cứ xử án là không đúng quy định pháp luật.
Báo CCPL sẽ tiếp tục thông tin.