Trong đơn gửi cơ quan chức năng, bà Bùi Thị Kim Hoa cho biết, bố mẹ chồng bà là cụ Đỗ Chí Thành và cụ Phạm Thị Bích Ngọc mất không để lại di chúc. Hai cụ có 3 người con chung là Đỗ Thị Bích Hà, Đỗ Thu Hương và Đỗ Chí Long (chồng bà Hoa, đã mất).
Khi còn sống bố mẹ chồng bà Hoa liên quan đến 2 khối tài sản gồm: Khối tài sản thứ nhất là 2 phòng tại tầng 1 nhà 35 Nguyễn Siêu, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm. Đây là nhà thuộc diện cải tạo do nhà nước quản lý cho các hộ thuê. Năm 1976, cụ Thành và cụ Ngọc thuê một phòng tại tầng 1 có diện tích 11,7m2, sau đó thuê thêm 1 phòng 20,9m2. Đến năm 1995, cụ Ngọc ký hợp đồng thuê nhà, thời điểm này chỉ có cụ Ngọc, ông Đỗ Chí Long, bà Bùi Thị Kim Hoa và anh Đỗ Bảo Chung (con ông Long, bà Hoa) sinh sống, quản lý sử dụng căn nhà này. Năm 1997, cụ Ngọc mua nhà theo Nghị định 61/CP và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Ngọc tổng diện tích 2 phòng là 32,6m2.
Khối tài sản thứ 2 là nhà đất tại thôn Cáp Hoàng, xã Lưu Hoàng, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội. Năm 2003 UBND huyện Ứng Hòa cấp GCN cho hộ cụ Đỗ Chí Thành.
Năm 2012, bà Đỗ Thu Hương đã nộp đơn khởi kiện ra TAND TP Hà Nội yêu cầu chia di sản thừa kế cụ Đỗ Chí Thành và cụ Phạm Thị Bích Ngọc để lại trong đó có tài sản nhà tại tầng 1 nhà số 35 Nguyễn Siêu và nhà đất tại thôn Cáp Hoàng, xã Lưu Hoàng.
Ngày 29/5/2017, TAND TP Hà Nội đã đưa vụ án trên giữa nguyên đơn là bà Đỗ Thu Hương và bị đơn là bà Bùi Thị Kim Hoa cùng một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác ra xét xử và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thu Hương về việc chia thừa kế đối với di sản của cụ Ngọc và cụ Thành để lại.
Cụ thể, về tài sản nhà tại tầng 1, nhà 35 Nguyễn Siêu, TAND TP Hà Nội xác định là tài sản chung của 11 người gồm cụ Phạm Thị Bích Ngọc, ông Đỗ Chí Long, bà Bùi Thị Kim Hoa, anh Đỗ Bảo Chung, gia đình bà Đỗ Thị Bích Hà gồm bà Hà, ông Nguyễn Văn Cương, anh Nguyễn Minh Đức và anh Nguyễn Đức Minh; gia đình bà Đỗ Thu Hương gồm bà Hương, chị Hoàng Thu Hải và chị Hoàng Thu Hằng. Chia cho bà Hoa, anh Chung, anh Khánh (con ông Long, bà Hoa) phòng phía trong tầng 1 có diện tích 20,9m2 (thực tế là 24,56m2) gác xép lối đi chung phía trong có diện tích 6,55m2, gác xép trong nhà có diện tích 10,1m2… Chia cho bà Hà, bà Hương, ông Cương, anh Đức, anh Minh, chị Hải, chị Hằng phòng tầng có diện tích 11,7m2 (thực tế là 11,84m2) gác xép trên lối đi chung phía ngoài có diện tích 4,96m2…
Đối với phần đất tại thôn Cáp Hoàng, xã Lưu Hoàng, tòa án ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự không yêu cầu tòa án giải quyết, giao cho anh Đỗ Bảo Chung quản lý làm nơi thờ cúng chung cho con cháu.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Hoa có đơn kháng cáo đối với bản án dân sự sơ thẩm của TAND TP Hà Nội. Ngày 11/6/2019 TAND cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định số 16/2019/QĐ-PT đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự trên. Không đồng ý, bà Hoa đã có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm này của TAND cấp cao tại Hà Nội và Bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội.
Theo bà Hoa, tại phần quyết định (trang 14 của bản án), Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng một số điều của Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015 là chưa thỏa đáng bởi cụ Thành mất ngày 9/4/2003 và cụ Ngọc mất ngày 31/7/2003. Tuy nhiên, việc mua nhà theo Nghị định 61/CP diễn ra từ năm 1995 đến năm 1997 được cấp sổ đỏ. Mặt khác, Bản án cũng không áp dụng Nghị định 61/CP (trong phần quyết định, cũng như trong nhận định) để giải quyết vụ án vì Nghị định 61/CP là căn cứ pháp lý quan trọng để làm rõ đối tượng được mua nhà do nhà nước quản lý.
Cũng theo đơn của bà Hoa, Tòa án cấp sơ thẩm đã có dấu hiệu giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện đồng thời xác định kỷ phần thừa kế chưa đảm bảo. Cụ thể, trong đơn khởi kiện (trang 4 bản án sơ thẩm) thì bà Hương chỉ yêu cầu “chia thừa kế của cụ Thành và cụ Ngọc theo pháp luật”. Tại Mục I phần nhận định của Tòa án (trang 9 của bản án) có nêu "Ngày 26/10/2012 bà Đỗ Thu Hương có đơn xin chia thừa kế di sản của bố mẹ để lại". Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “tranh chấp về thừa kế tài sản”. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định nhà tại tầng 1 số nhà 35 Nguyễn Siêu là tài sản chung của 11 người và xác định kỳ phần của cụ Ngọc là 1/11. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại giải quyết chia toàn bộ nhà số 35 Nguyễn Siêu chính là vừa chia thừa kế, vừa chia tài sản chung là giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chưa phù hợp với Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Bà Hoa nêu thêm, cụ Ngọc đã đứng ra mua nhà tại số 25 Nguyễn Siêu theo Nghị định 61/CP, tại thời điểm nhà nước hóa giá nhà 1995-1997, bà Hà, ông Cương, anh Đức, anh Minh tuy còn giữ hộ khẩu cũ ở tại 35 Nguyễn Siêu và trong hợp đồng thuê nhà cũ của cụ Ngọc, nhưng 4 người này đều là những người định cư tại nước ngoài từ những năm thập niên 80.
Bà Hoa cho rằng, việc bản án sơ thẩm đã xác định những người trên vẫn là người đồng sở hữu nhà ở tại 35 Nguyễn Siêu là chưa thỏa đáng… Ngoài ra, bà Hương lập gia đình đầu thập niên 80 và về sống ở nhà chồng. Bà Hương và 2 người con không sống tại địa chỉ 35 Nguyễn Siêu từ đó đến nay. Thực tế ngày 3/3/1995, khi cụ Ngọc ký hợp đồng thuê nhà chỉ có 4 thành viên (cụ Ngọc, ông Long, bà Hoa, anh Chung) sinh sống quản lý sử dụng nhà. Năm 1995 cụ Ngọc mua nhà theo Nghị định 61/CP. Như vậy, vào thời điểm năm 1995, năm 1997 được cấp sổ đỏ, bà Hương có nhà ở tại nơi khác không có nhu cầu thuê nhà, nhu cầu sử dụng nhà tại địa chỉ 35 Nguyễn Siêu nên không thuộc diện mua nhà theo Nghị định 61/CP của Chính phủ.
Liên quan đến vụ án này, ngày 15/3/2023, TAND tối cao đã có Công văn số 586/CV-TANDTC yêu cầu TAND cấp cao tại Hà Nội chuyển hồ sơ vụ án trên. Tuy nhiên, tại Công văn số 315/TANDCC-VP ngày 18/5/2023, TAND cấp cao tại Hà Nội cho biết hồ sơ vụ án đang được VKSND tối cao xem xét.
Báo Pháp luật Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc.