Mòn mỏi đòi hơn 1.400m2 đất
Theo Bản án sơ thẩm số 18/2016/DSST, ngày 24/3/2016 của TAND huyện Cầu Kè: bà Lê Thị Tư ủy quyền cho con gái là bà Phan Thị Cúc (SN 1971, trú tại ấp Trà Ốt, xã Thông Hòa, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh) khởi kiện yêu cầu bà Phan Thị Chính (trú tại ấp 4, xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè) phải trả lại cho gia đình bà diện tích 1.427m2 đất.
Năm 1994, ông Phan Văn Nhăm (mất năm 2010, chồng bà Tư) chuyển nhượng cho bà Phan Thị Chính (trú tại ấp 4, xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè) 2.625m2, trong tổng số diện tích 4.390m2 thuộc thửa 696, tờ bản đồ số 5 loại đất lúa tọa lạc tại ấp Trà Ốt, xã Thông Hòa, huyện Cầu Kè do ông Phan Văn Nhăm đại diện hộ gia đình đứng tên kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, còn lại 1.427m2 bà Chính sử dụng luôn.
Năm 2001, ông Nhăm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) đối với thửa đất trên. Tuy nhiên trong thời gian quản lý toàn bộ diện tích 4.390m2 đất, bà Chính đã bán lại cho nhiều người bao gồm: bán cho bà Cúc (bà Cúc và ông Don là chồng khi ly hôn đã chia đôi, phần của ông Don bán cho bà Phan Thị Nhanh, phần của bà Cúc tặng cho con gái là Diệp Thị Diệu, đã sang tên tách thửa xong), bán cho bà Đỗ Thị Xiêm, bán cho bà Trần Thị Ngộ (bà Ngộ bán lại cho ông Minh, ông Minh bán lại cho anh Tý), bán cho ông Đỗ Tấn Du (Tư Phi) tất cả các hộ sang nhượng hiện đang sử dụng ổn định.
Ông Nhăm chỉ chuyển nhượng cho bà Chính diện tích 2.625m2, còn phần gọi là mũi dụi mà anh Tý hiện đang sử dụng không chuyển nhượng, nhưng do bà Chính đã chuyển nhượng phần này nên bà Cúc xác định đo từ mũi dụi anh Tý đang sử dụng cho đến phần đất bà Chính bán cho bà Cúc, sau đó đo phần đất bà Chính bán cho ông Đỗ Tấn Du, khi đủ diện tích 2.625m2 mà ông Nhăm đã bán cho bà Chính, phần đất ở giữa mà hiện nay còn trống là phần đất còn thừa lại khoảng 1.427m2 bà Cúc đại diện cho bà Lê Thị Tư yêu cầu bà Chính phải trả lại cho gia đình bà.
Về phía bà Chính thì cho rằng, nguồn gốc đất tranh chấp là vào năm 1994, bà nhận chuyển nhượng của ông Nhăm 2,5 công đất và một góc tư được đo bằng tầm 2,7 mét. Đến năm 1996, bà tiếp tục sang nhượng của ông Nhăm phần đất gọi là mũi dụi còn lại và bà không biết diện tích là bao nhiêu. Hai lần sang nhượng là hết thửa 696 của ông Nhăm, vì vậy năm 2007 bà Chính được UBND huyện Cầu Kè cấp GCN đối với thửa đất trên với diện tích 3.157,5m2 (Do mở rộng hương lộ 33, nay thuộc thửa 393, tờ bản đồ số 61, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp Trà Ốt, xã Thông Hòa).
Do vậy, bà Chính không đồng ý giao trả diện tích đất cho gia đình bà Tư. Cực chẳng đã, bà Tư ủy quyền cho con gái là Phan Thị Cúc làm đơn khởi kiện bà Chính ra tòa yêu cầu bà Chính phải trả lại cho gia đình bà diện tích đất còn thừa là 1.427m2.
Vì sao bản án bị kháng nghị?
Ngày 24/3/2016, TAND huyện Cầu Kè đưa vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Lê Thị Tư (ủy quyền cho con gái là bà Phan Thị Cúc) và bị đơn là bà Phan Thị Chính ra xét xử và quyết định giao cho bà Phan Thị Chính tiếp tục sử dụng diện tích 1.362m2 thuộc thửa 393, tờ bản đồ 61, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp Trà Ốt, xã Thông Hòa, huyện Cầu Kè theo GCN bà Chính đã được cấp tương ứng với một phần thửa đất 696, tờ bản đồ số 5, loại đất lúa, tọa lạc tại ấp Trà Ốt theo GCN do ông Nhăm được cấp trước đây.
Tuy nhiên, chưa đầy một tháng án sơ thẩm tuyên, ngày 22/4/2016, VKSND tỉnh Trà Vinh đã có Quyết định kháng nghị số 04/QĐKNPT-DS kháng nghị hủy Bản án sơ thẩm số 18/2016/DSST ngày 24/3/2016 của TAND huyện Cầu Kè, nêu rõ : Cấp sơ thẩm giải quyết không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Tư cho rằng, việc ông Nhăm đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất 4.390m2 cho bà Chính ngày 16/5/1994 và ngày 30/6/1996 là chưa xem xét hết toàn bộ chứng cứ khách quan của vụ án và áp dụng pháp luật về đất đai.
Vì ông Phan Văn Nhăm được UBND huyện Cầu Kè cấp GCN ngày 20/5/2001 cho hộ gia đình ông Nhăm, như vậy lúc ông Nhăm chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Chính năm 1994 và 1996 nêu trên thì ông Nhăm chưa được cấp GCN. Do đó, việc ông Nhăm chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Chính là ông Nhăm chưa đủ điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng bằng giấy viết tay, không làm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên là vô hiệu về hình thức.
Tòa cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nhăm với bà Chính ngày 16/5/1994 và ngày 30/6/1996 là trái luật. Hơn nữa tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/6/1996, ông Nhăm không thừa nhận chữ ký trong giấy chuyển quyền sử dụng đất.
Tại bản Kết luận giám định số 1455/C12 ngày 8/6/2006 của Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát xác định: “Chữ ký tên của ông Phan Văn Nhăm dưới mục người chuyển nhượng đất trên giấy chuyển nhượng đất ngày 30/6/1996 là do bà Chính cung cấp các mẫu chữ ký của ông Nhăm, kết luận: Có khả năng do cùng một người ký ra”. Như vậy, chưa có căn cứ xác định ông Nhăm đã ký tên chuyển nhượng đất cho bà Chính vào ngày 30/6/1996 nên cũng chưa có căn cứ khẳng định ông Nhăm đã chuyển nhượng phần đất còn lại 1.427m2 cho bà Chính.
VKSND tỉnh Trà Vinh cũng cho rằng, đất này ông Phan Văn Nhăm được UBND huyện Cầu Kè cấp GCN ngày 20/5/2001 là cấp theo hộ gia đình, trong đó có quyền lợi của bà Tư và các con ông Nhăm. Phần đất này là tài sản chung của gia đình ông Nhăm mà các thành viên trong hộ gia đình ông Nhăm đều có yêu cầu bà Chính trả lại phần diện tích 1.427m2 đất thừa.
Do đó Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu của bà Tư đòi diện tích 1.427m2, chấp nhận hợp đồng ngày 30/6/1996 (giấy tay) và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/10/2004 (làm theo mẫu) của ông Nhăm với bà Chính là trái pháp luật về đất đai, chưa có cơ sở vững chắc gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của phía nguyên đơn.
Ngày 13/3/2014 Tòa án thụ lý vụ án, nhưng ngày 8/5/2014 UBND huyện Cầu Kè lại cấp GCN diện tích 1.362m2 cho hộ bà Chính dựa trên bản án phúc thẩm trước đó mà đã bị Quyết định Giám đốc thẩm hủy ngày 25/7/2008. Đây xem như vụ án đang tranh chấp, chưa được giải quyết xong mà UBND huyện Cầu Kè cấp GCN cho hộ bà Chính là không đúng quy định của pháp luật về đất đai, gây thiệt hại nghiêm trọng cho quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm không thu thập hộ bà Chính có bao nhiêu người để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót, vi phạm khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng Dân sự.