Theo Văn bản 6246/GTT-TA ngày 28/11/2023, TAND cấp cao tại TP HCM triệu tập các bên đương sự ngày 18/12/2023 có mặt tại phiên phúc thẩm vụ án bà Phạm Ngọc Hà (SN 1958, ngụ khu dân cư (KDC) số 3) kiện đòi hủy sổ đỏ đã cấp cho cụ Nguyễn Kim Hoa (SN 1937, ngụ KDC số 2) với thửa đất 30, 31 tờ bản đồ 14 (42 mới).
Theo hồ sơ, năm 1995, 4 hộ dân (trong đó có cụ Hoa) thỏa thuận nhượng đất để cụ Phạm Kỳ Dư (cha bà Hà) khai thác đất làm gạch. Cùng năm, huyện ra Thông báo 19/TB-UB tạm giao cụ Dư một khu đất làm gạch; không xác định khu đất vị trí ở đâu, số thửa số bản đồ nào, tọa độ nào.
Trong khi đó, cụ Hoa cho hay không nhượng đất cho cụ Dư. Cơ quan chức năng xác định cụ Hoa hoàn toàn không biết chữ, nên không thể lấy mẫu chữ ký giám định. Tuy nhiên, cơ quan chức năng chưa xác định chữ ký “Hoa” và “Nguyễn Kim Hoa” trong văn bản phía cụ Dư đưa ra là do ai ký?
Năm 1999 cụ Hoa được cấp sổ đỏ thửa 30, 31. Năm 2014, sau khi cha qua đời, bà Hà cho rằng thửa 30, 31 nằm trong khu đất cha mình từng được huyện tạm giao, nên khởi kiện đòi đất.
Về phía cụ Hoa, cho hay thửa 30,31 cụ tự khai hoang từ khoảng năm 1980, sử dụng liên tục. Cụ Hoa cho rằng con cụ Dư đã nhầm lẫn. Khu đất huyện tạm giao cụ Dư năm 1995 là diện tích nào đó, không liên quan thửa 30, 31.
Về phía UBND huyện, trong các phiên xử và một số lần ra văn bản, đều khẳng định hai vấn đề: Thứ nhất, thông báo năm 1995 đã không nêu chính xác thông tin khu đất tạm giao cụ Dư. Thứ hai, việc cấp sổ đỏ cho cụ Hoa với thửa 30, 31, huyện đã thực hiện đúng pháp luật, đúng thực tế SDĐ của cụ Hoa.
Vụ kiện đã qua 10 năm với nhiều lần xử, nhưng vẫn chưa đi đến phán quyết cuối cùng. Trước phiên phúc thẩm, phía bị đơn tiếp tục đưa ra một số chứng cứ mới.
Thứ nhất, văn bản xác nhận, làm chứng của 8 hộ sống lân cận đều xác nhận: “Thửa 30, 31 cụ Hoa khai hoang từ trước 1980, sử dụng ổn định, liên tục (trồng lúa, sau này trồng sâm) đến nay hơn 40 năm. Khoảng năm 1996 cụ Dư khai thác đất sét làm gạch giáp ranh đất cụ Hoa”.
Những nhân chứng trên nêu rõ: “Nếu thửa 30, 31 từng sử dụng để khai thác đất sét lấy nguyên liệu làm gạch thì sẽ trở thành ao hồ, chỉ có thể nuôi cá, chứ cụ Hoa không thể trồng trọt được hơn 40 năm nay”.
Thực tế, trước đây cả khu vực là vùng trũng, nên khi chuyển sang trồng sâm là loài cây “đại kỵ” ngập úng, gia đình cụ Hoa có đơn xin bồi thêm đất màu và UBND huyện có Công văn 835/UBND-TNMT đồng ý. Theo chứng cứ của một Cty thi công, đã đổ cho cụ Hoa 200m3 đất màu tôn tạo khu đất. Khối lượng đất màu này chỉ có thể đủ tôn tạo thửa 30,31 cao hơn vài chục cm; không thể cho rằng số đất này đủ để san lấp biến ao hồ thành khu đất cao ráo như hiện nay.
Thứ hai, một chứng cứ “sống” khác, trên thửa đất 30, 31 hiện còn 6 cây dừa khoảng hơn 40 năm tuổi gia đình cụ Hoa trồng rải rác. “Tòa có thể trưng cầu giám định số tuổi các cây, để xác định gia đình tôi đã sử dụng ổn định, liên tục khu đất ra sao”, ông Trần Văn Út (con trai cụ Hoa) nói.
Với chi tiết trong Bản án sơ thẩm 12/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 (trang 11) cho rằng các con cháu cụ Trần Công Nham “thừa nhận thửa đất 30, 31 của cụ Nham chuyển nhượng cho cụ Dư”; phía cụ Hoa đánh giá là không hợp lý, vì những người trên không phải nhân chứng trực tiếp, không có 1 ngày sử dụng đất trên, không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh. “Diện tích cụ Nham nhượng cho cụ Dư nay là thửa 122 (3.996m2) và cụ Dư đã được huyện cấp sổ đỏ năm 2004”, ông Út nêu quan điểm.
Với chi tiết tại trang 12 Bản án sơ thẩm 12 ghi “lời trình bày của ông Trần Văn Đảo”, nhân chứng Đảo khẳng định không dự phiên toà trên, bản án nêu như vậy là không đúng thực tế.