Lấy đất làm đường nhưng không đền bù
Theo phản ánh của ông Nguyễn Đức Luận (trú tại tổ 35, phường Phan Đình Phùng, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên): Năm 1973, gia đình ông nhận chuyển nhượng thửa đất của bà Nguyễn Thị Thủy và được tiểu khu Phan Đình Phùng (nay là phường Phan Đình Phùng) xác nhận và cho nộp trước bạ. Ngày 20/10/1977, gia đình ông được UBND TP Thái Nguyên cho phép xây nhà, trong giấy phép có vẽ sơ đồ khu đất, được giới hạn tường rào cách đường phía trước nhà 5m (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám - CMTT). Ngày 15/4/1981, UBND TP Thái Nguyên gia hạn giấy phép xây dựng và ngày 13/6/1983 cấp tiếp Giấy phép xây dựng số 694/QĐ-UB cho gia đình ông xây dựng nhà cấp 4 cách tim đường 10m.
Ngày 26/10/1993, gia đình ông Luận được UBND TP Thái Nguyên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B873288 (GCN), diện tích 314m2 đất thổ cư tại tờ bản đồ số 9, thửa 184 đứng tên bà Bùi Thị Mai Hương (vợ ông Luận).
Năm 2002, UBND TP Thái Nguyên lấy đất của gia đình ông Luận để thực hiện việc mở rộng đường Cách Mạng Tháng Tám (CMTT) nhưng không ra quyết định thu hồi đất, không bồi thường nên ông Luận làm đơn khiếu nại. Tiếp đến, ngày 9/1/2004, UBND TP Thái Nguyên có Quyết định (QĐ) giải quyết khiếu nại số 27/QĐ-UB với nội dung không chấp nhận bồi thường diện tích đất đã lấy của gia đình ông Luận để mở rộng đường CMTT vì cho rằng đó là đất hành lang giao thông.
Ngày 19/9/2006, UBND TP Thái Nguyên có QĐ số 2524/QĐ-UBND về việc thu hồi GCN đã cấp cho bà Hương để cấp lại theo bản đồ địa chính sau khi trừ lộ giới đường CMTT. Không đồng tình, ông Luận khiếu nại đến UBND tỉnh Thái Nguyên. Ngày 5/10/2006, UBND tỉnh này có QĐ số 2199/QĐ-UBND giữ nguyên QĐ số 27/QĐ-UB ngày 9/1/2004 của UBND TP Thái Nguyên.
Cho rằng QĐ số 27, QĐ số 2524 của UBND TP Thái Nguyên và QĐ số 2199 của UBND tỉnh Thái Nguyên xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình, ông Luận đã làm đơn khởi kiện ra TAND TP Thái Nguyên yêu cầu giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Luận đã rút một phần yêu cầu đối với diện tích đất 13,75m2 và yêu cầu TAND TP Thái Nguyên tuyên hủy QĐ số 27 và QĐ số 2524; Buộc UBND TP Thái Nguyên bồi thường phần diện tích đất 105,27m2 đã được cấp GCN cho gia đình ông theo quy định và bồi thường toàn bộ tài sản trên đất theo Biên bản kiểm đếm ngày 20/8/2002 trị giá gần 39 triệu.
Kháng nghị giám đốc thẩm
Ngày 24/6/2015, TAND TP Thái Nguyên đưa vụ kiện hành chính giữa ông Luận và Chủ tịch UBND TP Thái Nguyên, UBND TP Thái Nguyên ra xét xử. HĐXX bác yêu cầu khởi kiện của ông Luận đối với UBND TP Thái Nguyên về việc yêu cầu hủy QĐ số 27 và QĐ số 2524 của UBND TP Thái Nguyên cũng như yêu cầu bồi thường giá trị diện tích 105,27m2. Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu buộc bồi thường tài sản trên đất của ông Luận, buộc UBND TP Thái Nguyên bồi thường giá trị tài sản trên đất cho hộ gia đình ông Luận gần 39 triệu đồng.
Sau đó ông Luận kháng cáo. Ngày 27/1/2016, TAND tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm, tuyên không chấp nhận kháng cáo của ông Luận, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2015/HC-ST ngày 24/6/2015 của TAND TP Thái Nguyên. Nguyên đơn tiếp tục kháng cáo. Ngày 31/11/2017, Viện trưởng VKSND Cấp cao tại Hà Nội đã có QĐ kháng nghị Giám đốc thẩm số 09/QĐ-VKS-HC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 03/2016/HC-PT ngày 27/1/2016 của TAND tỉnh Thái Nguyên và đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại Hà Nội xem xét theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng: Hủy toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 03 của TAND tỉnh Thái Nguyên và Bản án hành chính sơ thẩm số 06 của TAND TP Thái Nguyên; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Thái Nguyên thụ lý giải quyết.
VKSND Cấp cao tại Hà Nội cũng kháng nghị tạm đình chỉ thi hành Bản án hành chính phúc thẩm số 03 của TAND tỉnh Thái Nguyên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm với nhận định: Việc thụ lý giải quyết của tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Cụ thể, QĐ giải quyết khiếu nại số 2199/QĐ-UBND ngày 05/10/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên là quyết định hành chính, được xác định là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính, thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, TAND TP Thái Nguyên không chuyển hồ sơ vụ án đến TAND tỉnh Thái Nguyên mà vẫn thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Đối với việc thụ lý giải quyết khiếu nại QĐ số 2524/QĐ-UBND ngày 19/9/2006 của UBND TP Thái Nguyên, hồ sơ vụ án không có tài liệu thể hiện ông Luận đã thực hiện việc khiếu nại QĐ số 2524/QĐ-UBND và không rõ ông Luận đã nhận được quyết định trên vào ngày, tháng, năm nào. TAND TP Thái Nguyên cũng không yêu cầu các bên đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do đó, QĐ số 2524 vẫn chưa đủ điều kiện thụ lý giải quyết. Do đó, việc TAND TP Thái Nguyên vẫn tiến hành thụ lý và xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trái quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội và khoản 3 Điều 4 Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của HĐTP TAND Tối cao.
Cũng theo kháng nghị của VKSND Cấp cao tại Hà Nội, việc TAND tỉnh Thái Nguyên không phát hiện được những vi phạm nêu trên của TAND TP Thái Nguyên và quyết định giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2015/HC-ST ngày 24/6/2015 của TAND TP Thái Nguyên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Tòa án thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, nhận định thiếu căn cứ
Về nội dung, kháng nghị của VKSND Cấp cao tại Hà Nội nhận định TAND TP Thái Nguyên và TAND tỉnh Thái Nguyên thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá, nhận định thiếu căn cứ. Cụ thể: TAND TP Thái Nguyên không yêu cầu UBND TP Thái Nguyên cung cấp chứng cứ liên quan đến hồ sơ cấp GCN số B873288, ngày 26/10/1993 cho hộ bà Bùi Thị Mai Hương để làm căn cứ xác định việc cấp GCN có đúng các quy định của pháp luật không cũng như không yêu cầu UBND TP Thái Nguyên cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc thu hồi đất, giao đất để thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng đường CMTT…
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Luận yêu cầu UBND TP Thái Nguyên cung cấp hồ sơ đã giải tỏa hành lang đường CMTT trước năm 1993, nhưng đại diện UBND TP Thái Nguyên không tranh luận và không cung cấp được. Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu UBND TP Thái Nguyên cung cấp chứng cứ để chứng minh mà vẫn nhận định có việc giải tỏa hành lang đường CMTT trước ngày 15/10/1993 trong bản án là không có căn cứ...
Mặt khác, Bản án hành chính phúc thẩm số 03 của TAND tỉnh Thái Nguyên đưa ra nhận định “Mặt khác, khi thiết lập bản đồ địa chính năm 1995, hộ ông Luận đã kí vào Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất số 40, diện tích 203,9m² bản đồ địa chính tờ số 36 phường Phan Đình Phùng gia đình đang sử dụng, đó là sự chấp nhận của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 và đất đã được chuyển sang đất chuyên dùng để xây dựng công trình giao thông đường bộ…”. Trong khi đó, hồ sơ vụ án không có Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất; Bản đồ địa chính năm 1995 nên Tòa án nhận định như vậy là thiếu căn cứ.
Kháng nghị của VKSND Cấp cao tại Hà Nội cũng nêu, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án hai cấp ở tỉnh Thái Nguyên đã không thẩm định hiện trạng thực tế để làm rõ vì sao Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất ngày 05/6/2002 thể hiện diện tích thu hồi là 108,15m² và Biên bản kiểm tra ngày 20/8/2002 diện tích thu hồi là 112,8m² để có căn cứ giải quyết vụ án.
“Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết luận không có căn cứ dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện”, kháng nghị Giám đốc thẩm của VKSND Cấp cao tại Hà Nội nêu.
“Mặc dù VKSND Cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định kháng nghị và đề nghị UBND TP TAND Cấp cao tại Hà Nội xem xét theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án của TAND TP Thái Nguyên và bản án của TAND tỉnh Thái Nguyên hơn 1 năm nay. Tuy nhiên, đến nay gia đình tôi vẫn chưa nhận được quyết định giám đốc thẩm của TAND Cấp cao tại Hà Nội”, ông Luận lo lắng.