Kiện nhau ra tòa sau khi góp tiền
Dự kiến, hôm nay (9/8), TAND cấp cao tại TP HCM xử phúc thẩm vụ kiện “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn Nguyễn Kiều Nhung (SN 1968, ngụ quận Bình Thạnh) và bị đơn Nguyễn Đình Thiệt (SN 1947, Việt kiều, quốc tịch Hoa Kỳ).
Theo đơn khởi kiện, từ 2014 - 2015, bà Nhung nhiều lần chuyển cho ông Thiệt tổng cộng 21,5 tỷ đồng. Bà Nhung cho rằng số tiền này để hùn hạp ông Thiệt mua nhà đất ở Việt Nam. Do ông Thiệt không trả nên bà khởi kiện đòi gốc và lãi là 56,1 tỷ đồng.
Bị đơn không đồng ý với nội dung khởi kiện, cho rằng đó là tiền góp vốn đầu tư hoạt động kinh doanh tại Mỹ, gồm góp vốn mua cổ phần Cty sản xuất kinh doanh sữa US.Milk Nutrition.Inc, góp tiền mua bất động sản Warehouse.
Theo bị đơn, với thỏa thuận mua cổ phần tại Cty sữa, các bên đã ký hợp đồng đầu tư vào ngày 19/11/2014; thỏa thuận ngày 9/3/2015. Bà Nhung chuyển tiền cho khoản này là 10,7 tỷ đồng. Các cổ đông Cty sữa họp ngày 25/8/2015 xác nhận số tiền bà Nhung thực góp vốn. Với thương vụ góp tiền mua bất động sản Warehouse, bà Nhung có văn bản cam kết góp 750.000 USD và đã chuyển cho ông Thiệt 10,7 tỷ đồng.
Bị đơn cho rằng mục đích góp vốn đã đạt được kết quả nhưng bà Nhung yêu cầu rút lại tiền mua cổ phần Cty sữa và rút vốn đã hợp tác đầu tư mua Warehouse. Sau đó, Đại hội cổ đông Cty sữa thống nhất bà Nhung toàn quyền bán số cổ phần đang sở hữu. Còn với số tiền mua Warehouse, phải đợi khi Cty thuê hoặc có người mua lại Warehouse thì mới đủ điều kiện để được hoàn vốn.
Bà Nhung và một số cá nhân đã khởi kiện Cty sữa và ông Thiệt tại Hoa Kỳ và tòa đang giải quyết.
Ông Thiệt xác nhận bà Nhung có chuyển 21,5 tỷ nhưng không phải để hùn hạp mua bán nhà đất ở Việt Nam; mà là mua cổ phần công ty sữa và mua bất động sản tại Mỹ.
Tại phiên sơ thẩm, TAND TP HCM chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nhung, buộc ông Thiệt trả bà Nhung 21,5 tỷ tiền gốc và 8,36 tỷ tiền lãi.
Không đồng ý, ông Thiệt kháng cáo. VKSND TP cũng kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Án sơ thẩm “không phù hợp với các chứng cứ thu thập được”
Theo VKSND TP, bản án nhận định các bên thỏa thuận “hùn hạp mua bất động sản tại Việt Nam”. Nguyên đơn đã chuyển 21,5 tỷ vào tài khoản cá nhân bị đơn và bị đơn lại chuyển ra nước ngoài để mua các tài sản ở nước ngoài là trái quy định pháp luật. Từ đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nhận định nêu trên là không phù hợp với các chứng cứ thu thập được.
Tại hợp đồng đầu tư ngày 19/11/2014, thỏa thuận ngày 9/3/2015, bà Nhung thỏa thuận mua 1,5 triệu cổ phần trị giá 1,5 triệu USD, để được là cổ đông của Cty sữa ở Mỹ.
Các giấy xác nhận chuyển tiền của ngân hàng thể hiện bà Nhung: “chuyển tiền theo thỏa thuận đầu tư Warehouse ký ngày 7/3/2015 của ông Nguyễn Bá Thi (chồng bà Nhung)”, “chuyển tiền theo thỏa thuận góp vốn đầu tư Ware ký ngày 7/3/2015”, “CT đầu tư đợt 1 (lần 2) theo HDDT đã ký N19/11/14”.
Các email bà Nhung gửi ông Thiệt, thư tay có chữ ký vợ chồng bà Nhung gửi ông Thiệt để đòi tiền, có nội dung “do việc đầu tư vào Cty sữa tại Mỹ có nhiều vấn đề khúc mắc không được giải quyết thỏa đáng” nên yêu cầu trả lại tiền.
Tài liệu thể hiện vợ chồng bà Nhung được chứng nhận sở hữu 5,64% tỷ lệ vốn góp của Cty sữa và đã được thực hiện quyền sở hữu là được họp cổ đông, biểu quyết, thể hiện tại biên bản họp ngày 25/8/2015.
VKSND TP cho rằng từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở khẳng định ông Thiệt không nhận tiền của bà Nhung để thay mặt bà Nhung đầu tư bất động sản tại Việt Nam; mà nhận tiền theo thỏa thuận để đầu tư Cty sữa tại Mỹ và góp vốn đầu tư bất động sản tại Mỹ. Thực tế, vợ chồng bà Nhung đã trở thành một chủ thể trực tiếp đầu tư, được sở hữu cổ phần và thực hiện quyền cổ đông.
VKSND cho rằng tòa sơ thẩm nhận định và tuyên xử như trên là không có căn cứ, không phù hợp tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của bị đơn. VKSND đề nghị TAND cấp cao tại TP HCM xét xử theo hướng sửa án sơ thẩm, tuyên không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.