Vụ án từ việc “mua bán dâm” thiếu tiền
Theo Cáo trạng và Bản án sơ thẩm, sau khi quen nhau qua mạng xã hội, anh Đ thỏa thuận với Trần Thu Hà (Trần Hà, SN 1999, trú tại Long Biên, Hà Nội) sẽ trả 10 triệu đồng sau khi hai người quan hệ tình dục. Tuy nhiên, sau khi quan hệ tình dục với Trần Hà tại nhà nghỉ ở phường Thanh Nhàn vào ngày 18/5/2019, anh Đ đã không trả tiền như đã hứa và chặn số điện thoại của Hà.
Biết chuyện, bạn Trần Hà là Đỗ Yến Nhi (SN 1997, trú tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) đã dùng Zalo nhắn tin làm quen với anh Đ nhằm hẹn gặp nói chuyện nhưng anh này nói chỉ gặp tại nhà nghỉ.
Tối 22/5/2019, khi Nhi cùng các bạn là Phạm Đức Tâm (SN 1993, trú tại quận Hai Bà Trưng) và Đinh Thu Hà (Đinh Hà, SN 1998, trú tại quận Hai Bà Trưng) và Trần Hà đang đi ăn thì thấy anh Đ nhắn tin hẹn gặp. Cả nhóm thống nhất đi gặp anh Đ nói chuyện đòi tiền cho Trần Hà. Nhi bảo Trần Hà và Tâm đến nhà nghỉ tại đường Lê Thanh Nghị (quận Hai Bà Trưng) thuê phòng trước. Nhi sẽ thuê một phòng khác chờ anh Đ đến.
Khoảng 22h cùng ngày, anh Đ lên phòng 203 gặp Nhi. Khi anh Đ đi tắm, Nhi mở cửa cho Đinh Hà, Trần Hà và Tâm vào phòng. Tâm gọi anh Đ từ nhà tắm ra, chỉ vào Trần Hà hỏi “mày có biết cô bé này không” và yêu cầu trả 10 triệu đồng tiền nợ. Anh Đ nói không có tiền nên mỗi tháng sẽ trả một ít. Đinh Hà lấy điện thoại ra quay hình. Còn Nhi thì tát và chửi anh Đ yêu cầu trả tiền cho Trần Hà.
Anh Đ lấy trong túi quần được 200.000 đ để lên mặt bàn. Khi được Nhi yêu cầu đưa điện thoại, anh Đ cũng đồng ý. Nhi tiếp tục yêu cầu anh Đ phải trả tiền thì anh này xin gọi điện về nhà để vay tiền. Nhưng khi Nhi giơ điện thoại để anh Đ mở mật khẩu màn hình thì anh Đ giật lại điện thoại và đánh, đẩy Nhi ngã ra giường. Tâm thấy vậy vào can thì bị anh Đ đánh lại nên Tâm dùng gạt tàn thuốc lá đập vào đầu anh Đ chảy máu đầu…
Hai bên giằng co điện thoại và xô đẩy một lúc thì anh Đ kêu mệt, đau và xin gọi điện cho người nhà chuyển tiền cho Trần Hà. Hai bên thỏa thuận sau khi anh Đ trả đủ tiền cho thì nhóm Nhi phải xóa clip đã quay.
Sau đó, anh Đ gọi điện cho bạn để vay tiền nhưng khi mở điện thoại lại nói là bị cướp và bắt cóc nên Tâm không cho nói chuyện nữa. Tâm nói chuyện với bạn anh Đ thì người này nói không có tiền. Thấy vậy, Nhi bảo “bây giờ lấy xe và điện thoại của Đ, khi nào chuyển đủ tiền thì trả”.
Cả nhóm đi xuống và dùng 200.000 của anh Đ để trả tiền nhà nghỉ. Khi về, Nhi đi xe máy của anh Đ, còn anh Đ thì được Tâm chở. Khi đi được một đoạn, thì Nhi trả lại xe cho anh Đ. Còn điện thoại Samsung S7 của anh Đ thì Nhi cầm về.
Trưa hôm sau, anh Đ đã đến Công an phường Bách Khoa trình báo sự việc và giao nộp cho cơ quan công an chiếc xe máy để phục vụ điều tra.
Sau đó, Tâm, Trần Hà, Đinh Hà, Nhi đã bị CQĐT Công an quận Hai Bà Trưng khởi tố, bắt giam về tội “Cướp tài sản”.
Quy kết cướp xe có thỏa đáng?
Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX TAND quận Hai Bà Trưng đã tuyên phạt Tâm 7 năm 6 tháng tù; Nhi, Đinh Hà, Trần Hà mỗi bị cáo 7 năm tù, cùng về tội “Cướp tài sản”. Theo HĐXX, các bị cáo đã đánh anh Đ để chiếm đoạt tài sản của anh này, gồm 200.000 đồng; 1 điện thoại di động và một xe máy (tổng trị giá 18,2 triệu đồng).
Tuy nhiên, ngay tại phiên tòa, khi phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo Tâm, LS Trịnh Đình Trực (VPLS Trịnh Trực) cho rằng việc cáo buộc các bị cáo có hành vi cướp tài sản là thiếu cơ sở bởi ý chí của các bị cáo là đòi tiền trong vụ mua bán dâm. Tại nhà nghỉ, bản thân anh Đ đã thừa nhận có nợ tiền Trần Hà và xin được trả dần hoặc gọi điện cho người thân vay tiền. Các bị cáo không dùng vũ lực đối với anh Đ ngay từ đầu mà chỉ khi anh này đánh và đẩy Nhi ra giường thì mới bị các bị cáo đánh lại.
Luật sư Trịnh Đình Trực |
Đánh giá về việc này, các LS bào chữa cho các bị cáo còn lại cũng cho rằng hành vi đánh người của các bị cáo chỉ là bộc phát, xuất phát từ sự bực tức chứ không phải đánh để cướp tài sản. Như vậy, việc quy kết “dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản” cần phải xem xét lại.
Trao đổi với PV, LS Trực còn cho rằng, việc cáo buộc các bị cáo chiếm đoạt xe máy của anh Đ lại càng thiếu cơ sở bởi khi ra khỏi nhà nghỉ được một đoạn thì anh này đã được trả lại xe. Có thể thấy, giai đoạn xuống quầy lễ tân để trả tiền phòng, ngồi sau xe Tâm đi ra ngoài đường thì anh Đ có thừa cơ hội để chống trả lại các bị cáo hoặc kêu cứu, đề nghị mọi người đi đường hỗ trợ “bắt cướp”.
Tuy nhiên, anh Đ đã không thực hiện bất cứ hành vi nào để thoát khỏi nhóm của Tâm. Thậm chí, anh này còn tự nguyện ngồi lên sau xe để Tâm chở. Với diễn biến này, có thể khẳng định anh Đ không hề “lâm vào tình trạng không thể chống cự” - một dấu hiệu bắt buộc phải có nếu muốn cáo buộc các bị cáo có hành vi cướp tài sản.
Việc cáo buộc các bị cáo chiếm đoạt 200.000đ cũng không đúng vì thực tế số tiền này đã được sử dụng để trả phòng nghỉ. Anh Đ chính là người hẹn Nhi vào nhà nghỉ với ý định mua dâm thì đương nhiên anh này phải trả tiền nhà nghỉ. Như vậy, việc dùng 200.000đ trả tiền nhà nghỉ là hợp lý, anh Đ không bị chiếm đoạt số tiền này.
Được biết, do có nhiều mâu thuẫn trong lời khai nên TAND quận Hai Bà Trưng đã từng trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm rõ ý kiến của LS về việc các bị cáo không chiếm đoạt xe; về việc không có yếu tố phạm tội có tổ chức và việc các bị cáo sử dụng vũ lực là nằm ngoài ý định. Tuy nhiên, sau khi điều tra tra bổ sung thì VKSND quận Hai Bà Trưng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Cướp tài sản”.
Tại phiên tòa, cả 4 bị cáo đều khẳng định trong quá trình điều tra chưa hề được làm việc với Điều tra viên (ĐTV) Lê Hoài Nam. Tuy nhiên, không hiểu sao lại có chữ ký của ĐTV Nam tại các biên bản lấy lời khai bị can. Ngoài ra, các bị cáo cũng cho biết, khi Kiểm sát viên vào trại tạm giam lấy lời khai thì có ĐTV (tên là Đức) đi cùng.
Các LS đều cho rằng đây là vi phạm tố tụng và thể hiện sự điều tra, truy tố không khách quan. Tuy nhiên, cả Kiểm sát viên và ĐTV đều cho rằng lời khai của các bị cáo về hai chi tiết trên là không đúng.
Cũng tại phiên tòa, ông T (đại diện gia đình bị cáo Tâm cho biết), 4 gia đình bị cáo đã thỏa thuận về việc mỗi nhà góp 5 triệu để bồi thường cho bị hại. Ông T đã đại diện đưa tiền cho ông Long (cán bộ điều tra) nhờ đưa tiền cho bị hại nhưng trong cáo trạng không nói đến số tiền này. Đề nghị ông Long đến Tòa để đối chất.
Về nội dung này, HĐXX cho rằng trong hồ sơ không thể hiện việc đưa tiền này nên không có căn cứ xem xét. Trong hồ sơ, người bị hại chỉ xác nhận việc nhận 2 triệu đồng.