Hiện trường (trước đây là quán cà phê Say) nơi Minh bị cáo buộc giao cấu với nạn nhân |
Chuyện tình tuổi teen oan nghiệt
Suốt sáu năm qua, Nguyễn Đức Anh Minh (SN 1994, ngụ quận 3, TP HCM) đều kêu oan, cho rằng mình bị vu oan tội giao cấu với trẻ em. Người bị hại là bé gái SN 1999 (cùng ngụ quận 3). Vụ án còn nhiều điểm chưa rõ trong quá trình điều tra nên bị trả hồ sơ điều tra bổ sung đến sáu lần, hiện vẫn chưa thể kết thúc...
Theo hồ sơ truy tố, ngày 15/11/2012, bé gái cùng bạn học đến hồ bơi Kỳ Đồng (quận 3) thì gặp bị can. Minh xin số điện thoại và nhiều lần nhắn tin làm quen, rủ đi chơi.
Ngày 20/11/2012, bé gái nhận lời đi uống trà sữa cùng Minh và một bạn học. Từ đó, giữa Minh và bé gái phát sinh tình cảm. Ngày 24/2/2013, Minh chở bé gái đến quán cà phê “Say” ở quận 3. Tại phòng riêng, tầng cao nhất của quán, bị can thực hiện hành vi giao cấu với bé gái. Sau đó khoảng hai tuần, cũng tại quán này, bị can quan hệ tình dục với bé gái lần thứ hai.
Lần thứ ba và thứ tư, Minh bị cáo buộc quan hệ tình dục với bé gái tại nhà riêng của mình. Lần cuối cùng là vào ngày 26/4/2013 tại quán cà phê nói trên. Do các lần cuối, bị can không dùng biện pháp phòng tránh nên bé gái phải mua thuốc ngừa thai về uống.
Ngày 27/04/2013, chị gái nạn nhân phát hiện vỉ thuốc ngừa thai trong bàn học của em nên gặng hỏi. Bé gái kể lại toàn bộ sự việc và nói rằng Minh hứa sẽ cưới nên mới cho quan hệ. Sau khi biết sự việc, ngày 7/5/2013, cha nạn nhân đến công an quận 3 tố giác.
Nhận tin, CQĐT Công an quận 3 đã tiến hành kiểm tra hiện trường, ghi nhận hiện trạng cấu trúc căn nhà nơi Minh thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân.
Ngày 17/7/2013, Trung tâm pháp y – Sở Y tế TP HCM kết luận giám định với nạn nhân: “Màng trinh giãn, rách cũ. Không tìm thấy tinh trùng. Có tế bào nam trong dịch âm đạo nhưng không lập được hồ sơ ADN của nhiễm sắc thể Y”.
Hai năm sau, tháng 2/2015, Công an quận 3 ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can với Minh. Tuy nhiên, trong sáu năm, VKSND quận 3 đã trả hồ sơ điều tra bổ sung đến sáu lần. Trong các lần trả hồ sơ, Viện đều yêu cầu thực hiện giám định băng ghi âm trong điện thoại của cha nạn nhân và file ghi âm mà ông này giao nộp.
Băng ghi âm “biến hóa”
Hồ sơ cho thấy, ngày 18/6/2013, cha nạn nhân giao nộp cho CQĐT Công an quận 3 đĩa DVD bên trong có lưu trữ một tài liệu ghi âm. Ông cho biết, đã dùng điện thoại ghi âm cuộc gọi diễn ra vào ngày 7/5/2013 lúc 15h5 giữa ông với Minh, nội dung thể hiện Minh thừa nhận có quan hệ tình dục với bé gái, trùng khớp với lời khai của bé gái. Đến bảy tháng sau, ngày 2/1/2014, CQĐT Công an quận 3 mới niêm phong đĩa DVD cha bé gái giao nộp.
Đến năm 2016, khi VKSND quận 3 trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu làm rõ băng ghi âm cuộc nói chuyện được cho là giữa cha nạn nhân và Minh thì CQĐT Công an quận 3 mới tiến hành thu giữ, niêm phong chiếc điện thoại K-Touch T102 của ông này. Biên bản thu giữ điện thoại ghi rõ, trong thẻ nhớ điện thoại có một file: “Cal_01_0507_150553.wav (sau đây gọi là file ghi âm 53), ngày 2013.05.07, giờ 15:05”.
Như vậy, đĩa DVD và thẻ nhớ điện thoại chỉ có một băng ghi âm cuộc gọi. Thời lượng băng ghi âm là 5 phút 25 giây.
Nhưng không hiểu tại sao, khi CQĐT Công an quận 3 gửi đến Viện Khoa học hình sự Bộ Công an để giám định giọng nói hai người trong file ghi âm thì lại xuất hiện hai file ghi âm.
Kết luận ngày 16/2/2017 của Viện Khoa học hình sự cho thấy, CQĐT Công an quận 3 gửi: File ghi âm thứ nhất Cal_01_0507_150553.wav có tên trùng khớp với file ghi âm mà công an thu giữ từ điện thoại của cha nạn nhân. Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện file này lại bị “teo” thời lượng, từ 5 phút 25 giây xuống còn 2 phút 45 giây. Và xuất hiện file ghi âm mới có tên Cal_02_0507_173331.wav có thời lượng 1 phút 52 giây. Không rõ, file ghi âm thứ 2 là ở đâu, được thu giữ từ thiết bị nào, lúc nào và tại sao file ghi âm 53 lại giảm về thời lượng?
Sau đó, VKSND quận 3 lại trả hồ sơ, yêu cầu dịch file ghi âm thành văn bản. Lần này, CQĐT Công an quận 3 lại gửi đến Viện khoa học hình sự một file ghi âm có tên Cal_01_0507_150553.wav thời lượng 5 phút 25 giây.
Mới đây nhất, khi bị trả hồ sơ, CQĐT quận 3 lại đưa đi dịch file ghi âm Cal_02_0507_173331.wav tại Viện khoa học hình sự. Nhưng thời lượng lại tiếp tục thay đổi từ 1 phút 52 giây thành 3 phút 41 giây.
Điều này rất khó hiểu, cùng một tên file ghi âm nhưng thời lượng “biến ảo” qua những lần đưa đi giám định. Và xuất hiện file ghi âm mới không rõ từ đâu và vẫn bị thay đổi về thời lượng? Liệu rằng chứng cứ này có được xem là cơ sở kết tội hay không?
Rà soát hồ sơ, nhận thấy ngày 7/5/2013 là ngày cha nạn nhân đến Công an quận 3 tố cáo hành vi của Minh. Và lúc 15 giờ 5 phút cùng ngày là cuộc gọi của cha nạn nhân đến Minh để ghi âm tạo nên “chứng cứ kết tội”. Liệu rằng hai vấn đề này có mối liên quan nào hay không?
Ngoài ra, các bằng chứng cho thấy file ghi âm mà cha nạn nhân gọi cho Minh vào lúc 15h5’ ngày 7/5/2013 nhưng điện thoại của Minh lại nhận được cuộc gọi của ông này vào lúc 15h1’. Sự chênh lệch giữa thời gian ghi âm và thời gian cuộc gọi này là do đâu?
Các luật sư bào chữa cho Minh cũng cho hay họ không thể tiếp cận, sao chép các băng ghi âm mà CQĐT Công an quận 3 đang sử dụng làm chứng cứ kết tội Minh. Các luật sư chỉ được photocopy bản dịch thành văn bản các file ghi âm này.
Vụ án đã kéo dài sáu năm, với sáu lần trả hồ sơ, đến nay, chứng cứ kết tội Minh là file ghi âm lại có độ biến ảo về thời lượng, về tên và cả số lượng. Thế nhưng những chứng cứ này vẫn không được chấp nhận. Ngày 15/3, TAND quận 3 đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Vụ án được xét xử kín. HĐXX cho rằng có đủ chứng cứ kết tội Nguyễn Đức Anh Minh có hành vi “Giao cấu với trẻ em” nên tuyên phạt 4 năm tù giam.
Phía bị cáo vẫn một mực kêu oan và cho rằng HĐXX đã chưa đánh giá đúng mọi chứng cứ, chưa làm rõ mâu thuẫn về băng ghi âm. Bị cáo cho biết sẽ kháng cáo kêu oan.
Báo PLVN sẽ tiếp tục thông tin vụ việc đến bạn đọc.
Công an thừa nhận khám nhà sai
Khi vụ án chưa được khởi tố, Điều tra viên Công an quận 3 đã đến nhà Minh đòi khám nhà và lập “biên bản khám nghiệm hiện trường” vào ngày 31/10/2013. Việc khám nghiệm này không có sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp, không có lệnh khám, không đọc lệnh khám, không có sự tham gia của chính quyền địa phương và không giải thích cho những người có mặt trong nhà được biết.
Gia đình Minh yêu cầu cung cấp biên bản việc khám nghiệm nhưng không được chấp nhận. Mãi đến ngày 2/1/2014, gia đình Minh mới được giao văn bản và đã ghi ý kiến: “Không nghe đọc lệnh vào nhà, không có cảnh sát khu vực hay tổ trưởng dân phố trong ngày 31/10/2013”. Hành vi trên của Điều tra viên đã vi phạm các qui định về khám nghiệm hiện trường.
Tuy nhiên, CQĐT Công an quận 3 lại lý giải rằng: “Do nạn nhân khai từng được Minh dẫn về nhà đưa lên phòng giao cấu nên cần kiểm tra, chụp hình địa điểm này để so sánh đối chiếu với mô tả của nạn nhân. Tuy việc sử dụng mẫu khám nghiệm hiện trường để kiểm tra là không đúng nhưng không ảnh hưởng đến kết quả điều tra vụ án”.