Vợ chồng tôi kết hôn tháng 6/2016, không có tài sản chung và chưa có con chung. Quá trình chung sống với nhau được hơn một năm thì xảy ra mâu thuẫn do tôi phát hiện ra cô ấy ngoại tình. Tôi chấp nhận tha thứ nhưng sau đó cô ấy đã bỏ nhà đi theo người tình từ đầu năm 2018 đến nay.
Xét tình cảm vợ chồng không còn, cuối năm 2019 tôi gọi cô ấy về để giải quyết việc ly hôn. Cô ấy cùng tôi đến tòa án hỏi thủ tục ly hôn có một lần nhưng chưa kịp ký tá đơn từ gì. Từ đó đến nay tôi liên lạc nhiều lần nhưng cô ấy không hợp tác. Xin hỏi trong trường hợp cô ấy không về thì liệu Tòa án có giải quyết cho tôi ly hôn được hay không? (Anh Vũ H, 29 tuổi ở Hà Nam).
Đối chiếu tình huống của anh với các quy định pháp luật, luật sư tư vấn như sau:
1. Về quyền đơn phương yêu cầu giải quyết ly hôn
Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:
“1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”.
Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;……………..”.
Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, đối chiếu với trường hợp của anh thì anh có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện nơi vợ anh cư trú, làm việc giải quyết ly hôn.
2. Về việc giải quyết ly hôn khi vắng mặt bị đơn
Khoản 1 Điều 205 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”.
Về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định gồm vụ án:
“1. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, trường hợp vụ án có bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì được xem là vụ án không tiến hành hòa giải được. Khi đó, Tòa án sẽ tiến hành các bước tiếp theo để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như sau:
“1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa.
2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:
a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;
b) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
c) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật;
d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật;
đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ”.
Bên cạnh đó, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa.
3. Các trường hợp quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo các quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, trong trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nếu bị đơn, người đại diện của họ vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Việc hoãn phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nếu bị đơn, người đại diện của họ vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Đối chiếu với trường hợp của anh, anh đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện nơi cư trú của người vợ giải quyết ly hôn. Trong trường hợp đã được Tòa án 02 lần triệu tập hợp lệ đến để giải quyết vụ án nhưng người vợ đều cố tình không đến thì Tòa án vẫn có thể xem xét tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.