Phát biểu khai mạc tại hội nghị trực tuyến tại 6 điểm cầu sáng 17/9, Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ điểm qua hạn chế trong quá trình triển khai đề án.
Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 (gọi tắt là Đề án) được phê duyệt năm 2008. Mục tiêu là đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong các trường, để "đến năm 2020, đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam".
Đề án có tổng kinh phí gần 9.400 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 2008-2010 là 1.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011-2015 gần 4.400 tỷ đồng, giai đoạn 2016-2020 khoảng 4.000 tỷ đồng. Nhưng sau 8 năm thực hiện, đến nay Đề án làm được những gì?
Chất lượng thực hiện thấp
Trọng tâm của Đề án là giai đoạn 2016-2020 với nhiệm vụ triển khai chương trình ngoại ngữ 10 năm trên cả nước, từ lớp 3 đến lớp 12; tăng cường tiếng Anh trong tất cả trường nghề, cao đẳng và đại học. Đến nay, đề án tiêu tốn khoản tiền khá lớn nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn.
Năm 2016, cả nước có khoảng 1,6 triệu học sinh lớp 3, 4, 5 trong tổng số gần 7,8 triệu học sinh được học tiếng Anh 4 tiết/tuần, chiếm khoảng 20%. Số còn lại tiếp cận với tiếng Anh với thời lượng 2 tiết/tuần.
So với mục tiêu 100% học sinh lớp 3 được học chương trình tiếng Anh 10 năm thì đích đến vẫn còn xa. Đội ngũ giáo viên thiếu trầm trọng là khó khăn lớn nhất, cấp THCS hiện chỉ có hơn 33% đạt chuẩn và cấp THPT hơn 26%.
Số giáo viên đạt chuẩn của nhiều địa phương còn thấp hơn nhiều. Như Cao Bằng hiện chỉ có 86 giáo viên tiếng Anh trong khi có 275 trường. Nhiều tỉnh khác rơi vào hoàn cảnh tương tự, như Hà Giang, Bắc Kạn, Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Kon Tum, Khánh Hòa...
Đánh giá hiệu quả giai đoạn vừa qua, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho rằng chất lượng đề án còn thấp, đặc biệt là tiếng Anh, thể hiện rõ trong kỳ thi THPT quốc gia. Giai đoạn mới cần thực hiện việc dạy và học cho chuẩn hơn. "Dạy và học ngoại ngữ mà chưa chuẩn thì thà không dạy còn hơn", ông nói.
Tình trạng lãng phí khi triển khai đề án
Đến năm 2014-2015, tình trạng lãng phí trong việc triển khai đề án mới được thanh tra Bộ GD-ĐT phát hiện. Theo thanh tra bộ, nhiều địa phương đã dùng tiền của đề án phân bổ mua thiết bị hiện đại, đắt tiền nhưng lại không trang bị phần mềm tiếng Anh, không phục vụ trực tiếp cho các mục tiêu của đề án.
Có nơi mua sắm thiết bị nhưng không tập huấn kỹ, giáo viên không sử dụng được thiết bị vào việc dạy học. Có nơi đầu tư tiền dự án mua sắm thiết bị rất lớn nhưng vốn đối ứng để nâng cấp cơ sở vật chất, đảm bảo việc sử dụng thiết bị hiệu quả không đúng mức. Ví dụ không có phòng học tiếng cách âm, không có nơi bảo quản thiết bị dẫn tới việc thiết bị xuống cấp, hỏng hóc.
Nhiều tỉnh đã sử dụng phần lớn kinh phí mua sắm thiết bị nên không còn tiền cho các hoạt động khác của đề án (bồi dưỡng giáo viên, mua tài liệu, phần mềm dạy học). Có nơi do không có kế hoạch từ trước đã mua thiết bị công nghệ thông tin chỉ có phần cứng, không có phần mềm ứng dụng đi kèm nên “đắp chiếu”, không dùng được.
Giáo viên "chuẩn mà chưa chuẩn"
Nhìn lại chặng đường 8 năm triển khai, nhiều tỉnh thành có số giáo viên "đạt chuẩn" nhưng năng lực thực tế ra sao thì lại là câu hỏi lớn. Tại hội nghị triển khai đề án giai đoạn 2016-2020 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 17/9, trong kế hoạch giai đoạn mới không có dòng nào đề cập đến những thành quả đạt được cũng như hạn chế của những năm 2008-2015.
Lãnh đạo nhiều sở giáo dục thẳng thắn chỉ ra bất cập trong công tác bồi dưỡng, tập huấn giáo viên để đạt chuẩn. Ông Nguyễn Minh Trí, Phó giám đốc Sở Giáo dục Quảng Ngãi cho biết, tỉnh này hiện có 80% giáo viên tiếng Anh đạt chuẩn, nhưng qua khảo sát năng lực chuyên môn thì thấy còn rất yếu ở tất cả kỹ năng.
Việc đạt chuẩn có phản ánh đúng thực chất hay không là câu hỏi lớn nên các cấp quản lý thường nói với nhau "Đạt chuẩn nhưng chưa chuẩn".
"Vậy nên khi phụ huynh hỏi Con tôi học ngoại ngữ vậy có dùng được không, tưởng dễ mà thật khó trả lời và rất nhiều cán bộ đào tạo phải né tránh", ông kể.
Ông Trí đánh giá, trong việc bồi dưỡng giáo viên các đơn vị chưa thật sự chủ động vào cuộc. Đa số giáo viên, đơn vị trường phổ thông và cả phòng giáo dục đều có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào lớp bồi dưỡng do Sở và Bộ tổ chức. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2025 toàn bộ giáo viên đạt chuẩn có phù hợp với thực tế và khoa học hay không là vấn đề phải bàn kỹ.
TS Đỗ Tuấn Minh, Hiệu trưởng Đại học Ngoại ngữ (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho rằng việc bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ được ưu tiên số 1, nhưng phải quanh năm, không thể chỉ diễn ra vào dịp hè và mang tính chất thời vụ.
Hiện nay, việc bồi dưỡng còn ngắn, chỉ được tổ chức một lần cho đến khi giáo viên đạt chuẩn là kết thúc. Đôi khi, các cơ sở chỉ làm cho xong mà thiếu đi những hoạt động sau bồi dưỡng để giáo viên áp dụng.
Giám đốc Sở Giáo dục Hải Phòng Vũ Văn Trà đánh giá, việc học tiếng Anh hiện nay vẫn loay hoay ở hai kỹ năng là đọc, viết và chủ yếu phục vụ cho mục đích thi chứ chưa thực sự ứng dụng cao trong thực tiễn.
Nhiều người bằng , chứng chỉ kia nhưng đi dự hội thảo, tiếp xúc với người nước ngoài không dám nói. Việc đánh giá năng lực học sinh cũng mới dừng lại ở kỳ thi THPT quốc gia. Theo ông Trà, dạy tiếng Anh phải theo phương châm "Dạy đến đâu, dùng được đến đấy".
Hiện, chưa có khảo sát cụ thể về năng lực người học, song thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Phượng, Phó trưởng khoa Ngoại ngữ, Đại học Tây Nguyên cho biết, ngoài lớp học thì môi trường thực hành ngoại ngữ của sinh viên ở đây hầu như không có.
Trong số sinh viên còn nợ học phần tốt nghiệp thì tới 79% không đạt chuẩn đầu ra về ngoại ngữ. "Con số trên nói được rất nhiều về năng lực người học ở cấp học hiện tại", bà nói.
Theo bà Phượng, hiện khu vực Tây Nguyên rất thiếu giáo viên chuyên ngữ, chuyên ngành. Gần 40 năm qua, trường mới có một giảng viên ngoại ngữ là tình nguyện viên nước ngoài và mới kết thúc chương trình làm việc 9 tháng tại trường.
Chưa kể, chương trình đào tạo giáo viên phổ thông đều chưa được xây dựng và triển khai. Tiếng Anh vẫn là môn tự chọn trong thi tốt nghiệp dẫn đến tỷ lệ học sinh chọn thi rất thấp.
Đề án giai đoạn 2016-2020 đưa lộ trình đạt chuẩn đối với giáo viên tiếng Anh các cấp học phổ thông quy định theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Năm 2016 là 45% giáo viên tiểu học, 55% giáo viên trung học cơ sở, 65% giáo viên THPT.
Từ năm 2017-2019, tỷ lệ đạt chuẩn mỗi năm tăng thêm 10% đối với giáo viên các bậc học. Mục tiêu năm 2020 đạt chuẩn 100% giáo viên các bậc học. Đối với giảng viên đại học, cao đẳng, đề án đưa ra lộ trình năm 2018 phải đạt chuẩn 100%.
Tranh cãi thí điểm dạy tiếng Nga, tiếng Trung từ lớp 3
Trong lộ trình triển khai dạy và học ngoại ngữ mới trong các cơ sở giáo dục phổ thông, Bộ GD&ĐT đưa ra mục tiêu thí điểm dạy tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Nhật như ngoại ngữ 1 và tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Đức như ngoại ngữ 2.
Theo đó, từ 2017, Bộ sẽ xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Nga, tiếng Trung 10 năm, từ lớp 3 đến lớp 12 theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Năm học 2016-2017, Bộ đã cho thí điểm dạy tiếng Nhật từ lớp 3 tiểu học tại 5 trường ở Hà Nội và TP HCM. Môn này lần lượt nhân rộng trên cả nước, đặc biệt là những địa phương có nguyện vọng và điều kiện triển khai.
Tiếng Hàn, tiếng Pháp cũng được thí điểm giảng dạy như ngoại ngữ thứ hai. Năm học này, tiếng Hàn được thí điểm ở lớp 6 và lớp 10 tại một số trường có nguyện vọng ở Hà Nội và TP HCM. Giai đoạn 2017-2025, ngoại ngữ này sẽ lần lượt được triển khai ở các lớp tiếp theo của cấp THCS và cấp THPT.
Nhiều ý kiến băn khoăn "Dạy tiếng Anh còn chưa tốt thì đưa thêm các ngoại ngữ khác vào chương trình liệu có ổn?" và khái niệm “ngoại ngữ thứ nhất, thứ hai” gây khó hiểu. Lãnh đạo địa phương cho rằng, điều kiện mỗi vùng miền khác nhau, nếu cứ "dàn hàng ngang mà tiến" như trước thì đề án sẽ gặp khó khăn.
Phản hồi về dự kiến thí điểm dạy tiếng Nga, tiếng Trung Quốc như ngoại ngữ thứ nhất trong trường phổ thông, Bộ GD-ĐT giải thích: “ngoại ngữ thứ nhất” là ngoại ngữ bắt buộc.
Còn “ngoại ngữ thứ hai” là ngoại ngữ tự chọn, tùy theo nhu cầu của người học và điều kiện dạy học, các trường phổ thông có thể bố trí dạy học. Căn cứ vào ngoại ngữ thứ nhất, học sinh có thể chọn một trong năm ngoại ngữ nói trên là ngoại ngữ thứ hai.
Việc lựa chọn ngoại ngữ thứ nhất được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định từ năm 2006, bổ sung năm 2011 gồm tiếng Anh, tiếng Nga, Trung, Pháp và Nhật. Đến nay, Đề án không lựa chọn hay xem xét các ngoại ngữ khác ngoài 5 thứ tiếng trên.
Hiện, tiếng Nga và Trung được dạy học như ngoại ngữ thứ nhất từ lớp 6 đến lớp 12 theo chương trình hiện hành 7 năm.
Để đảm bảo tính hài hòa giữa các ngoại ngữ thứ nhất, Ban quản lý Đề án trình Bộ trưởng kế hoạch triển khai giai đoạn 2016-2020, trong đó có việc xây dựng chương trình môn học tiếng Nga, tiếng Trung hệ 10 năm, từ lớp 3 tiểu học đến lớp 12 THPT cho phù hợp với khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc hiện nay.