Chẩn đoán bệnh chính xác hơn
Đây là một trong những kết quả của cụm công trình “Nghiên cứu dịch tễ học, ứng dụng các tiến bộ mới trong chẩn đoán, điều trị và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh ung thư vú” do các nhà khoa học Bệnh viện K thực hiện vừa nhận giải Nhất lĩnh vực Y dược, Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2018. Và là sự tự hào về thành tựu y học của Việt Nam so với các nước tiên tiến trên thế giới.
Tại Việt Nam, ung thư vú là loại ung thư phổ biến hàng đầu ở nữ giới với tỷ lệ mắc mới chuẩn hóa theo tuổi (ASR) vào năm 2013 là 24,4/100.000 dân (ước tính của GLOBOCAN năm 2018 là 26,4/100.000 dân).
Ngoài các yếu tố di truyền, nguy cơ ung thư vú có liên quan đến tuổi bắt đầu kinh nguyệt muộn, tuổi sinh con lần đầu trên 30 tuổi. Xu hướng mắc ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam bắt đầu tăng từ độ tuổi 30-34 tuổi và tăng nhanh, đỉnh cao ở 55-59 tuổi với tỷ lệ là 135/100.000 dân.
Theo thống kê, hiện có khoảng hơn 42 nghìn người đang sống cùng căn bệnh ung thư vú. Quan trọng hơn cả, ngày nay ung thư vú có thể sàng lọc, phát hiện sớm và tiên lượng điều trị tốt nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm.
Trước đây, khi được chẩn đoán ung thư vú HER 2 dương tính, tiên lượng bệnh rất xấu vì dễ di căn, nguy cơ tử vong cao. Song nhờ áp dụng kỹ thuật mới trong chẩn đoán, điều trị, tỷ lệ sống sau 5 năm đã đảo chiều ngoạn mục. Cụ thể, để xác định gene HER 2 trước đây các cơ sở dùng phương pháp nhuộm hóa miễn dịch, tỷ lệ sai sót khoảng 5-10%.
Trong khi với kỹ thuật FISH, biện pháp nhuộm huỳnh quang tỷ lệ chẩn đoán đúng, chính xác gần đạt 100%. Thậm chí các trường hợp âm tính với phương pháp cũ khi kiểm tra phương pháp mới cho kết quả dương tính, nhờ đó giảm thiểu tối đa các trường hợp bỏ sót không đáng có.
Bệnh viện K là nơi đầu tiên áp dụng phương pháp FISH từ năm 2000. Các kỹ thuật hiện đại giúp bảo tồn, tái tạo tuyến vú: các kỹ thuật mổ xẻ hiện đại gặp nhiều khó khăn do kích thước tuyến vú ở phụ nữ Việt Nam tương đối nhỏ, song Cụm công trình cũng đã giải quyết thành công vấn đề này, đem lại niềm tin cho người bệnh, được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh đó, xạ trị kỹ thuật cao như xạ trị điều biến liều IMRT cũng lần đầu được ứng dụng đã giúp tăng tính chính xác và giảm tác dụng phụ đối với các mô lành xung quanh tổ chức u, tăng hiệu quả điều trị ung thư vú, tác dụng phụ hạn chế, cho phép nâng cao liều xạ trị.
Ung thư không còn là “án tử”
Trong số các bệnh ung thư thường gặp ở nữ giới, ung thư vú được đánh giá là bệnh có tiên lượng sống tốt ở giai đoạn sớm và hoàn toàn có thể chữa khỏi. Với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm tỉ lệ chữa khỏi đến 95%. Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. Trong giai đoạn 2008-2010, qua sàng lọc hơn 70.000 phụ nữ tại 7 tỉnh/thành phố, tỷ lệ phát hiện ung thư vú qua sàng lọc đạt 59,2/100.000 phụ nữ là khá cao, cho thấy hiệu quả khi triển khai các chương trình này tại cộng đồng.
Tuy nhiên tại cộng đồng, chỉ có hơn 20% phụ nữ có thực hành tự khám vú hàng tháng trong số những người tham gia chiến dịch sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú. Tín hiệu đáng mừng đó là tỷ lệ phát hiện bất thường ở nhóm phụ nữ thực hành tự khám vú thấp hơn ở nhóm không thực hành, cho thấy hiệu quả và ý nghĩa của việc hướng dẫn phụ nữ tự khám vú đối với việc phát hiện sớm tổn thương ung thư vú.
Qua nghiên cứu ung thư vú, khảo sát đánh giá các loại ung thư khác, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy ung thư không đáng sợ như suy nghĩ của người nhiều người, nếu được phát hiện sớm khả năng điều trị khỏi càng cao. Ở các nước phát triển họ quan niệm bệnh ung thư chỉ là bệnh mãn tính như bệnh tiểu đường, sống chung, không đáng sợ. Ở Việt Nam cũng nhiều tấm gương người bệnh chiến thắng bệnh tật.
“Bằng chứng là các y, bác sĩ, những người thầy của tôi vẫn nhận được bó hoa chúc mừng của bệnh nhân sau 40 - 45 năm kính tặng. Ung thư hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu quan tâm, đặc biệt là sàng lọc phát hiện sớm”, GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K Trung ương nhấn mạnh.
Trên 95% các trường hợp ung thư vú phát hiện sớm điều trị sẽ khỏi bệnh. Tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú của Bệnh viện K là trên 70%, tương đương với Singapore. Trình độ tay nghề phẫu thuật, kiến thức của bác sĩ Việt Nam cũng hoàn toàn sánh được với các bác sĩ trên thế giới. Thể hiện qua các buổi hội chẩn, các bác sĩ Việt Nam được các nước đặc biệt là Anh, Pháp, Mỹ đánh giá cao về trình độ, giúp tự tin hơn trong công tác phục vụ người bệnh.
“Chúng tôi rất tự tin vào khả năng, trình độ chẩn đoán điều trị bệnh ung thư của các bác sĩ Việt Nam. Điều này thể hiện qua tỷ lệ chữa khỏi bệnh ở Việt Nam, trong đó có Bệnh viện K ngày càng tăng lên, áp dụng các biện pháp điều trị, thuốc, máy móc, trang thiết bị ngang tầm các nước phát triển. Các nước xung quanh như Singapore, Hàn Quốc,... có thiết bị gì, thuốc gì thì chúng ta cũng có thuốc, thiết bị đó”, GS Thuấn chia sẻ.