Cụ thể, theo ông Được, đó là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để áp đặt giá bán dịch vụ bất hợp lý theo Khoản 2 Điều 13 Luật Cạnh tranh năm 2004. Bởi lẽ, ba nhà mạng Viettel, MobiFone và Vinaphone đang chiếm tới 97% thị phần viễn thông cả nước. Do đó, chiểu theo Khoản 2 Điều 11 Luật Cạnh tranh, có thể được xác định đây là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Về mặt hành vi thì hành vi nói trên của ba nhà mạng đều vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh như: hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hóa, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đặc biệt, hành vi tăng giá cùng một lúc của ba nhà mạng đã thỏa mãn hai điều kiện đó là: giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó; không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.
Như vậy, thực tế không có biến động bất thường nhưng ba nhà mạng đã lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của mình để tăng giá cước 3G tới 40%.
Ông Được cho biết, trên thực tế, các nước như Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản đều coi 4 dạng thỏa thuận ngang gồm thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận kiểm soát số lượng sản xuất, mua bán và thông đồng đấu thầu là các thỏa thuận làm nguy hại tới cạnh tranh trong mọi trường hợp, không thể được biện minh bởi bất kỳ một lập luận nào về tác động tích cực hay hiệu quả của các thỏa thuận.
Do vậy, khi xem xét tính hợp pháp/bất hợp pháp của các thỏa thuận này, những nước nói trên đều áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên, tức là cấm các thỏa thuận trong mọi trường hợp. Theo đó, đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gồm:
Doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức ngành nghề. Các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định trong pháp luật cạnh tranh phải phù hợp với đối tượng bị truy cứu trách nhiệm, đồng thời phải tương xứng với mức độ tác động và gây hại của hành vi, trong đó bao gồm: chế tài phạt tù - được áp dụng đối với cá nhân vi phạm; chế tài phạt tiền - được áp dụng đối với doanh nghiệp; cá nhân và/hoặc tổ chức vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả - được áp dụng đối với doanh nghiệp và/hoặc tổ chức vi phạm.
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như Canada, cơ quan cạnh tranh chịu trách nhiệm điều tra vụ việc, nhưng việc truy tố hình sự lại thuộc thẩm quyền của Viện Công tố. Trong khi đó, ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Israel, Cơ quan chống độc quyền có đồng thời hai thẩm quyền điều tra và truy tố hình sự đối với hành vi các-ten. Về thời hạn phạt tù tối đa, một số quốc gia quy định cá nhân vi phạm có thể bị phạt tù tối đa lên tới 5 năm, như Nhật Bản, Ireland, Vương quốc Anh...
Trong khi đó, Hoa Kỳ có cách tiếp cận nghiêm khắc hơn đối với hành vi các-ten với quy định về thời hạn phạt tù tối đa lên tới 10 năm. Về mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân vi phạm về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là 5 triệu yên (tại Nhật Bản), 4 triệu euro (tại Ireland), 500.000 đô la New Zealand (tại New Zealand) hoặc 1 triệu đô la Mỹ (tại Hoa Kỳ).
Ông Trần Anh Sơn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương):
Vi phạm pháp luật cạnh tranh, DN sẽ bị phạt 10% tổng doanh số
Theo quy định của pháp luật tố tụng cạnh tranh thì chúng tôi điều tra độc lập. Tất cả các thông tin do DN cũng như Bộ Thông tin và Truyền thông cung cấp đều là nguồn chứng cứ. Phải nhấn mạnh là chúng tôi không có quyền kết luận ai vi phạm. Việc ai vi phạm sẽ do Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh kết luận thông qua phiên điều trần, tại đó sẽ có tranh luận giữa các bên bị điều tra, cơ quan điều tra và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Nếu như bị kết luận là có vi phạm, mức phạt tối đa có thể là 10% tổng doanh số của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. 10% tổng doanh số - rất cao.