Vì sao Công ty cổ phần Thương mại- Dịch vụ Hải Phòng chưa ổn định để hoạt động ?
Công ty cổ phần Thương mại- Dịch vụ Hải Phòng (SETRACO) thành lập năm 2000, từ việc cổ phần hoá cửa hàng 135 Điện Biên Phủ, nhưng đến nay chưa ổn định được tổ chức để hoạt động. Ngược lại, gần đây lại có công văn của Công ty cổ phần Xây lắp Thương mại (CPXLTM) đề nghị Sở Kế hoạch- Đầu tư thu hồi đăng ký của Công ty SETRACO. Vậy thực chất của vấn đề này là thế nào?
Phức tạp từ việc chuyển đổi
Công ty SETRACO sau khi cổ phần hoá có số vốn điều lệ là 1,132 tỷ đồng. Trong đó, phần vốn Nhà nước theo các báo cáo của công ty là 339,6 triệu đồng (tương đương 3.396 cổ phần, mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu), chiếm 30% vốn điều lệ. Đến cuối năm 2002, đầu năm 2003, công ty tăng vốn điều lệ thêm 1 tỷ đồng, đưa số vốn điều lệ của công ty lên hơn 2 tỷ đồng. Lúc đó, Nhà nước không mua thêm cổ phần nên số cổ phần vẫn là 3.396 cổ phần. Cuối năm 2002, UBND thành phố có quyết định số 3331/QĐ-UB ngày 24-12-2002 sáp nhập Công ty thương mại Hồng Bàng (TMHB) vào Công ty Xây lắp thương mại Hải Phòng (XLTM). Trong nội dung quyết định sáp nhập giao cho giám đốc Công ty XLTM tiếp nhận nguyên trạng Công ty TMHB, kể cả việc đại diện “30%” phần vốn nhà nước ở Công ty SETRACO. (Tuy nhiên, cho đến nay, trong hồ sơ của Công ty CP XLTM tại Sở Kế hoạch- Đầu tư chưa thấy có quyết định của UBND thành phố giao cho cá nhân đại diện phần vốn nhà nước này).
Đến ngày 24-7-2004, một số cổ đông trong Công ty SETRACO có đơn tố cáo bà Nguyễn Thị Minh, Giám đốc- Chủ tịch HĐQT có những biểu hiện sai trái trong việc quản lý, sử dụng tài sản của công ty, việc tăng vốn điều lệ, kinh doanh không có hiệu quả, không chia cổ tức cho các cổ đông. Sở Thương mại cũng có công văn gửi UBND thành phố giải quyết vướng mắc tại Công ty SETRACO và Công ty XLTM Hải Phòng…Vì vậy, UBND thành phố thành lập Đoàn thanh tra liên ngành (TTLN), thanh tra các nội dung tố cáo tại SETRACO.
Sau gần 1 năm thanh tra, Đoàn TTLN đã có kết luận về trách nhiệm của bà Nguyễn Thị Minh. Tiếp theo, cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục vào cuộc và kết luận có việc sửa chữa về nội dung phát hành cổ phiếu lần 2 có giá trị 1 tỷ đồng (biên bản của Đại hội đồng cổ đông ngày 22-11-2002) nhưng cũng khẳng định, tại công ty không bị thất thoát tài sản trong việc phát hành thêm cổ phiếu trị giá 1 tỷ đồng. Viện Kiểm sát nhân dân xét thấy thiệt hại đã được khắc phục, việc tranh chấp phát hành thêm cổ phiếu là tranh chấp nội bộ công ty, được giải quyết theo quy định Luật Doanh nghiệp, nên không truy tố và quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với bà Minh và một số người khác có liên quan trong vụ việc trên.
Sau khi có các kết luận trên, toàn bộ số cổ đông là cá nhân của Công ty SETRACO bán hết cổ phần cho các cổ đông của Công ty HAPACO vào cuối năm 2006. Như vậy hiện nay, toàn bộ số cổ phần của Công ty SETRACO do các cổ đông HAPACO và cổ đông nhà nước nắm giữ.
Vướng mắc trong việc xác định phần vốn Nhà nước
Sau khi Công ty Xây lắp thương mại trở thành công ty cổ phần, phần vốn Nhà nước tại SETRACO được tính vào vốn điều lệ của Công ty CP XLTM. Công ty CP XLTM căn cứ vào quyết định số 3331/QĐ-UB, cho rằng họ đại diện “30%” vốn Nhà nước ở SETRACO, vì không công nhận việc SETRACO phát hành thêm cổ phần trị giá 1 tỷ đồng, nên đã có đơn đề nghị Sở Kế hoạch- Đầu tư thu hồi đăng ký kinh doanh của SETRACO.
Về phía Công ty SETRACO cho rằng, việc đưa phần vốn Nhà nước tại SETRACO vào vốn điều lệ của Công ty CP XLTM với nguyên giá trị ban đầu là chưa hợp lý, làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Mặt khác, tỷ lệ phần vốn đó không còn chiếm 30% ở SETRACO, vì vốn điều lệ từ 1 tỷ đồng đã tăng lên hơn 2 tỷ đồng. Cụ thể hiện tại phần vốn Nhà nước trong Công ty CP XLTM là 12%, trị giá thành tiền là 384 triệu đồng, bao gồm cả phần vốn Nhà nước tại Công ty SETRACO là 339,6 triệu đồng. Nếu trừ đi khoản tiền này, phần vốn nhà nước trong công ty CP XLTM chỉ còn 44,4 triệu đồng tương đương với tỷ lệ nắm giữ khoảng 1,4% vốn điều lệ. Từ thực tế này, nhiều người băn khoăn đặt câu hỏi có nên giao vốn nhà nước vào một doanh nghiệp cổ phần, mà tỷ lệ phần vốn nhà nước còn lại thấp như vậy? Hoặc, nếu muốn giao, trước hết chủ sở hữu vốn Nhà nước nên đưa tài sản của Nhà nước tại SETRACO ra đấu giá theo đúng quy định pháp luật. Với giá trị tăng thêm 10-15 lần do lợi thế của địa điểm mang lại, có thể thu được số tiền gấp 10-15 lần giá trị ban đầu rồi đầu tư vào Công ty CPXLTM. Với cách làm như vậy, tỷ lệ phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp này sẽ không phải là 12% mà là một tỷ lệ lớn hơn nhiều.
Về việc Công ty XLTM đề nghị Sở Kế hoạch- Đầu tư rút đăng ký kinh doanh của Công ty SETRACO, Sở Kế hoạch- Đầu tư Hải Phòng cho rằng việc đó là chưa phù hợp với các quy định của Luật Doanh nghiệp và các nghị định hướng dẫn thi hành. Điều này được Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư của Chính phủ trả lời chính thức trong công văn số 569/BKH-TCT ngày 25-1-2007: “…Qua xem xét nội dung các hồ sơ gửi kèm công văn số 63/KHĐT-ĐKKD của Sở Kế hoạch- Đầu tư Hải Phòng, Tổ công tác nhận thấy, Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Hải Phòng chưa thuộc vào một trong các trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.” Như vậy, cho đến thời điểm này, đăng ký kinh doanh của Công ty cổ phần Thương mại dịch vụ Hải Phòng với số vốn điều lệ là hơn 2 tỷ đồng vẫn là hợp pháp và đang có hiệu lực. Theo đăng ký này, với 3.396 cổ phần, tỷ lệ phần vốn nhà nước trong SETRACO chỉ còn khoảng 15%.
Cần có quyết định dứt khoát của chủ sở hữu phần vốn Nhà nước
Để tránh những mâu thuẫn không đáng có và tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, cần có sự quyết định dứt khoát của chủ sở hữu phần vốn Nhà nước (cụ thể là UBND thành phố) về tỷ lệ phần vốn nhà nước còn lại trong SETRACO. Mặt khác, theo ý kiến của cơ quan chức năng, phần vốn của nhà nước chỉ có 339,6 triệu đồng, không thể đồng thời vừa nằm trong vốn điều lệ của SETRACO lại vừa nằm trong vốn điều lệ của Công ty CPXLTM. Nếu trong vốn điều lệ của cả hai công ty đều có khoản tiền trên, thì phải chăng Nhà nước có hai khoản tiền 339,6 triệu đồng? Việc UBND thành phố giao số vốn này cho ai đại diện quản lý cũng là vấn đề cần xem xét lại. Vì thực tế, việc giao cho Công ty CPXLTM đại diện quản lý phần vốn Nhà nước tại SETRACO đã bộc lộ những hạn chế, gây ra phức tạp không đáng có như đã phân tích ở phần trên.
Theo ý kiến của cơ quan chức năng, việc này nên thực hiện theo quy định của Nghị định 199/2004/NĐ- CP ngày 3-12-2004, điều 5, khoản 2 và Quyết định 151/2005/QĐ-TTg ngày 20-6-2005 của Thủ tướng Chính phủ, về việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước. Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm chuyển giao quyền chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các công ty cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước.
Mong rằng, sự việc bùng nhùng ở Công ty SETRACO sớm được kết thúc, để doanh nghiệp ổn định sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế thành phố và đất nước.
Nhóm phóng viên kinh tế