Vốn giải ngân qua VDB chiếm gần 4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã đảm bảo huy động đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thông qua việc huy động và tài trợ vốn cho các dự án phát triển, đặc biệt là các dự án trọng điểm của Chính phủ.
Tính chung, vốn tín dụng đầu tư (TDĐT) do VDB giải ngân trong giai đoạn vừa qua chiếm gần 4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng khoảng 1,5% GDP. Trong đó, tín dụng từ nguồn vốn trong nước chiếm 2,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 0,9% GDP; giải ngân nguồn vốn ODA chiếm 1,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 0,6% GDP.
Nhờ huy động được lượng vốn lớn, tín dụng của VDB đã được đẩy mạnh đáng kể với tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ bình quân đạt 12,6%/năm, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dự án của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế.
Các hình thức hỗ trợ gián tiếp khác như hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thêm các kênh vốn thương mại, thúc đẩy gia tăng nguồn lực xã hội dành cho đầu tư phát triển, đồng thời làm gia tăng tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín dụng (TCTD), tăng tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
Cụ thể, VDB đã cấp ra 1.639 tỷ đồng hỗ trợ sau đầu tư cho các dự án, qua đó đã tác động tích cực tới việc chủ đầu tư các dự án sử dụng hiệu quả gần 40.000 tỷ đồng vốn vay từ NHTM.
Số vốn tuyệt đối và tỷ trọng huy động vốn qua phát hành trái phiếu trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung ngày càng tăng; tổng số vốn VDB huy động được qua hình thức này khoảng 300.000 tỷ đồng. Trong đó, có giai đoạn chiếm đến 75% doanh số huy động; giữ vững vị trí là nhà phát hành trái phiếu lớn thứ 2 toàn nền kinh tế sau Kho bạc Nhà nước.
Bình quân dư nợ của VDB chiếm khoảng 6,1% tổng dư nợ toàn thị trường; đối với một tổ chức mới, đây là lượng vốn đáng kể, thể hiện sự đóng góp tích cực trên thị trường; với bất kỳ sự điều chỉnh nào làm biến động hoạt động của VDB cũng có những ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển ổn định của thị trường ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Tỷ lệ vốn tín dụng của VDB thực hiện trong 10 năm qua đối với lĩnh vực công nghiệp, xây dựng luôn tăng nhanh, duy trì mức bình quân hơn 70% dư nợ luôn cao hơn tỷ lệ vốn đầu tư của toàn xã hội trong lĩnh vực này, thu hút các nguồn vốn khác trên thị trường cùng cho vay đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng.
Thông qua việc đẩy mạnh cho vay đầu tư, đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đầy đủ điện năng, tạo tiền đề phát triển cho các loại hình du lịch quốc tế thông qua một số chương trình/dự án trọng điểm nổi bật là: Đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nhà ga T2 - Sân bay Nội Bài, Điện gió Bạc Liêu, Nhà máy thủy điện Sơn La, Nhà máy thủy điện Lai Châu, Nhà máy nhiệt điện Ô Môn 1 và các dự án điện nguồn và truyền tải điện quốc gia; các nhà máy xi măng, luyện thép, cơ khí trọng điểm, VDB hiện đang quản lý cho vay: 183 dự án trọng điểm trên phạm vi cả nước (dự án Nhóm A - quy mô tăng gần 2 lần so thời điểm thành lập).
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, VDB cho vay 230 dự án, góp phần quan trọng nâng cao năng lực chế biến và bảo quản sau thu hoạch. 642 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng (HĐTD) gần 53.000 tỷ đồng đầu tư vào một số lĩnh vực trồng rừng nguyên liệu và trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ hải sản và thực phẩm, kiên cố hoá kênh mương và đường giao thông nông thôn, xây dựng mới trạm bơm nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cụm tuyến dân cư vùng lũ. 307 dự án an sinh xã hội (trường học, bệnh viện, xử lý rác thải, cấp nước sạch, nhà ở xã hội,…) với số vốn vay theo HĐTD đạt hơn 50.000 tỷ đồng.
Về tín dụng xuất khẩu, với doanh số cho vay hơn 142.000 tỷ đồng, VDB đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh, tranh thủ thời cơ mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp giữ vững thị trường truyền thống, khai thác các thị trường mới và tiềm năng.
Đối với một số thị trường đặc thù như Iraq, Cuba, trong khi các NHTM hạn chế cung cấp tín dụng, VDB vẫn thể hiện rõ vai trò công cụ chính sách khi vẫn tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu sang các thị trường này và các thị trường mới ở Châu Phi hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện hợp đồng xuất khẩu, tạo uy tín trong hợp tác kinh tế và quan hệ giữa Việt Nam và các nước. Tuy nhiên, từ 2017, Chính phủ chỉ đạo VDB dừng cho vay xuất khẩu để tập trung nguồn lực vào TDĐT.
Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng |
Một số khó khăn, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình hoạt động VDB còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế. Thứ nhất, danh mục đầu tư ngày càng thu hẹp và giảm dần tính ưu đãi. Cụ thể, từ năm 2006 đến nay, danh mục đối tượng vay vốn tại VDB được quy định cố định tại Nghị định với thời gian kéo dài; danh mục này thu hẹp theo hướng quy định thêm giới hạn quy mô dự án và lĩnh vực đầu tư.
Danh mục các ngành nghề, dự án đã được tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng điểm cần khuyến khích đầu tư theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số dự án quan trọng tuy đã được xác định chủ trương ưu tiên đầu tư nhưng chưa được đưa vào danh mục đối tượng hưởng ưu đãi từ nguồn vốn TDĐT của Nhà nước.
Cơ chế, chính sách của Nhà nước đã và đang từng bước giảm bớt tính ưu đãi của tín dụng Nhà nước, làm giảm sức cạnh tranh, giảm vai trò hỗ trợ của VDB đối với doanh nghiệp như: Bảo đảm tiền vay đã không còn ưu đãi so với cho vay thương mại; lãi suất vay vốn đang dần tiệm cận với lãi suất cho vay của các NHTM trong cùng lĩnh vực..., không còn thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tiếp cận với nguồn vốn này.
Trong điều kiện đó, các trình tự, thủ tục mà khách hàng phải đáp ứng để có đủ điều kiện vay vốn TDĐT của Nhà nước chậm được thay đổi phù hợp như: Các dự án phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục đầu tư áp dụng đối với các dự án sử dụng vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, đối tượng hỗ trợ của VDB có tính rủi ro cao (các dự án đầu tư có tính thương mại thấp hoặc các khách hàng mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá vào các thị trường mới), trong khi cơ chế để hạn chế và xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng hầu như không phù hợp nên khi rủi ro tín dụng xảy ra, rủi ro pháp lý đối với VDB là khá cao.
Hai là, mô hình hoạt động và khung chính sách cho hoạt động của VDB còn nhiều bất cập. Là ngân hàng chính sách của Chính phủ hoạt động trong lĩnh vực cho vay đầu tư phát triển, hoạt động của VDB không những bị điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp lý trong lĩnh vực đầu tư công, quản lý xây dựng, quản lý ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, do khung pháp lý cho hoạt động của VDB được xây dựng chủ yếu dựa trên sự kế thừa các quy định áp dụng đối với Quỹ Hỗ trợ phát triển và vận dụng các quy định khác của pháp luật trong quá trình hoạt động nên hoạt động của VDB sẽ kém linh hoạt hơn so với các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng khác và rủi ro pháp lý trong hoạt động của VDB rất cao.
Quá trình nghiên cứu, xây dựng, đổi mới trong hoạt động tín dụng chính sách của Nhà nước khá chậm, chưa giải quyết toàn diện các vấn đề vướng mắc, chưa thật sự phù hợp thực tiễn như: Đối tượng cho vay, mức độ ưu đãi về lãi suất, xác định mức lãi suất, về thời hạn cho vay, cơ chế phân loại nợ, cơ chế tài chính, cơ chế trích lập và xử lý rủi ro…
Mục tiêu, định hướng
Trong thời gian tới, VDB tiếp tục sắp xếp lại tổ chức bộ máy và nhân sự tại Trụ sở chính, các Chi nhánh, Sở Giao dịch, đồng thời ban hành các quy định nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành và kiểm soát nội bộ phù hợp với các văn bản pháp lý đã được hoàn thiện và mô hình tổ chức hoạt động của VDB hiện nay.
Cùng với quá trình cơ cấu lại tổ chức và hoạt động ngân hàng, vấn đề đổi mới mô hình, phương thức hoạt động cũng phải đảm bảo phù hợp và đáp ứng các yêu cầu mang tính đặc thù của ngân hàng chính sách, vừa phải củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển và tái cơ cấu hoạt động với mục tiêu xây dựng VDB là ngân hàng chính sách của Chính phủ, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.
Về mục tiêu, cơ cấu lại hoạt động để khắc phục những tồn tại, hạn chế yếu kém, từng bước đưa hoạt động của VDB an toàn, bền vững hơn, phù hợp với nguyên tắc thị trường và các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội; tập trung vào hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước và quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ ủy thác cho vay lại; nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế những tổn thất...
Củng cố nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành, kiểm soát rủi ro hoạt động, ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy trình, quy chế quản trị nội bộ đối với hoạt động tín dụng của VDB theo hướng tiếp cận dần với chuẩn mực thị trường; từng bước hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành.
Thực hiện hiệu quả các biện pháp để giảm mạnh nợ xấu, hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh mới; theo nguyên tắc giảm thiệt hại cho Nhà nước, phù hợp với đặc thù hoạt động của VDB; nâng cao trách nhiệm trong việc cho vay, thu hồi nợ, xử lý nợ, phát hiện sai phạm trong quá trình quản lý, đồng thời có giải pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế phát sinh nợ xấu mới. Đồng thời nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư, khách hàng vay vốn, góp phần ổn định việc làm cho người lao động tại các doanh nghiệp.
Đảm bảo hoạt động VDB an toàn, ổn định và tiến tới phát triển bền vững theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, từng bước lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính, giảm cấp bù từ ngân sách nhà nước.
Hiện tại,VDB đang xây dựng Đề án về mô hình tổ chức hoạt động của VDB sau năm 2021, trong đó đề xuất xây dựng VDB thành tổ chức tài chính phát triển của Nhà nước, có chức năng chủ yếu là tiếp nhận và huy động vốn để cho vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) phục vụ các dự án đầu tư phát triển thuộc các ngành, lĩnh vực và địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu tư trong từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ; ngoài ra, VDB được thực hiện một số hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng để hỗ trợ việc thực hện chức năng chủ yếu./.