Ứng xử với di sản văn hóa

Di sản văn hóa là những cái nhìn thấy trước mắt như các công trình, kiến trúc tồn tại với thời gian, nhưng cũng đôi khi lại là những cái không nhìn thấy được. Những cái vô hình ấy đang  mất dần đi, sẽ mất hẳn nếu không ai giữ gìn và nghĩ về chúng.

Tôi theo dõi nhiều cuộc tranh luận về các phương án dự thi “Quy hoạch Hồ Gươm” – khu vực mang linh hồn của thủ đô Hà Nội. Giữa đất Thăng Long, một không gian thiên nhiên với những nét tinh túy không đâu có được. Làn nước xanh ngăn ngắt với những tầng thủy tảo được lưu vào sách đỏ chỉ nơi đây mới có. Rồi Tháp Rùa với những truyền thuyết, huyền thoại về “cụ” rùa hàng trăm năm tuổi, chùa tháp Bút, đền Ngọc Sơn….đã trở thành biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến.

 

Nhưng lại cũng tại nơi có di sản văn hóa thiêng liêng ấy đang diễn ra những hành vi xâm phạm vẻ đẹp vốn có của hồ Gươm. Những hành xử không đẹp của những người dân hằng ngày vẫn đi dạo, ngồi chơi, túm năm tụm ba quanh bờ hồ, những người bán hàng rong, hàng quà, những người có “nhu cầu giải quyết nỗi buồn”, những người có thú ham mê câu cá…. Tất cả đều diễn ra tại hồ Gươm. Hồ Gươm của Thủ đô, của cả đất nước hình chữ S trở nên tạp nham với những xô bồ của sinh hoạt đời thường. Tôi thương hồ Gươm và cũng thương cho những nhà hoạch định chiến lược lâu dài chưa tìm ra được phương án “cứu” hồ Gươm. Nếu không nhanh, sợ những nét đẹp trầm mặc cổ kính nghìn năm của quần thể di sản này sẽ dần bị ăn mòn, mai một…

 

Nghĩ về hồ Gươm như vậy, tôi lại chợt nhớ về những di sản văn hóa của thành phố Cảng quê ta. Chạnh buồn! Thời gian qua, có nhiều di sản được quan tâm, đầu tư tu bổ, tôn tạo nét uy nghiêm, linh thiêng, bề thế vốn có từ cách đây hàng trăm năm. Nhưng bên cạnh đó, vẫn có những di sản khiến người dân mỗi khi nhìn vào lại muốn rơi nước mắt. Không ngoại trừ đó là những di sản phi vật thể, những di sản vô hình mắt thường không nhìn thấy được từ ứng xử văn hóa đời sống hằng ngày.

 

Có những di sản văn hóa phi vật thể từng được quan tâm khôi phục như hát đúm, ca trù, hò kéo củi…. Nhưng rồi mới chỉ ca trù “sống” được nhờ được đưa vào chương trình lâu dài phục vụ các tua, tuyến du lịch cùng với chèo, còn hát đúm, hò kéo củi… chỉ xuất hiện vài lần ở các hội diễn văn nghệ quần chúng rồi lại … ngủ yên. Đến mức, dễ chỉ có người dân ở địa phương có di sản văn hóa phi vật thể ấy mới biết là có loại hình sinh hoạt văn nghệ ấy, còn người dân ở những nơi khác- không loại trừ nhiều người công tác trong ngành, cơ quan văn hóa cũng không hình dung được nó như thế nào….

 

Và cả những di sản văn hóa vật thể “bằng xương bằng thịt” đôi khi còn bị “bỏ quên”, không quan tâm, như những ngôi đình, đền, chùa, miếu trên địa bàn thành phố. Có nơi, cỏ dại, rêu xanh mọc nhiều đến mức tưởng như đã bị bỏ hoang. Cũng có nơi được quan tâm, trùng tu, xây sửa thì bị lạm dụng, biến thái thành điểm kinh doanh dịch vụ tràn lan….

 

Càng ngẫm tôi lại càng thấy việc ứng xử với các di sản văn hóa hình như chưa… “ổn” lắm. Nếu ổn, chắc sẽ không có tình trạng mai một nhiều di sản phi vật thể. Và các di sản vật thể cũng sẽ không bị “quên”. Và những nét văn hóa truyền thống sẽ hiện hữu ngày một nhiều và trở thành niềm tự hào trong đời sống tinh thần của người dân Việt.

 

Phong Phong