Theo chia sẻ của bà mẹ này, chị ăn chay trong suốt thai kỳ. Đến khi chuyển dạ, chị đã tự sinh con ở nhà, tự đỡ đẻ, không chích ngừa và da kề da với bé trong suốt 4 giờ sau sinh. Sau khi chào đời 30 phút, em bé đã tự biết tìm đến ti mẹ. Đặc biệt, thay vì cắt dây rốn cho bé, chị đã áp dụng phương pháp “thai sản thuận tự nhiên”, không cắt dây rốn ngay mà để nhau thai gắn với cơ thể em bé cho đến khi dây rốn tự rụng. Trong số những bình luận trên mạng xã hội, có rất nhiều ý kiến cho rằng hành động tự sinh con ở nhà là không nên.
Nói về những mặt lợi, hại của phương pháp “thai sản thuận tự nhiên” như người mẹ này gọi, bác sĩ Trần Vũ Quang, Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết: Theo phương pháp của bà mẹ này có nhiều nguy cơ thai sản mà bà mẹ không lường trước được rủi ro cho cả mẹ lẫn con. Đặc biệt các mẹ áp dụng sinh con tại nhà lại khó tiên lượng tai biến và hỗ trợ từ chuyên môn y tế kịp thời. Sinh con thuận tự nhiên theo phương pháp của bà mẹ này nguy cơ nhiễm trùng cho bé rất dễ xảy ra.
Tuy chưa xác định được danh tính cụ thể của nhân vật chia sẻ câu chuyện song Bộ Y tế cho biết, trường hợp này nếu có là một hành vi hết sức nguy hiểm, có thể đe dọa tính mạng cả mẹ và con. Bộ Y tế khuyến cáo, mặc dù sinh đẻ là một quá trình sinh lý bình thường nhưng khi mang thai, sinh đẻ, người phụ nữ phải đến cơ sở y tế để được quản lý thai, chăm sóc thai nghén, đỡ đẻ, chăm sóc mẹ và con sau khi đẻ đúng theo quy trình chuyên môn. Việc sinh đẻ tại nhà, tự đẻ mà không có cán bộ y tế hỗ trợ trong quá trình chuyển dạ, sinh con và theo dõi, chăm sóc sau sinh có thể dẫn đến những nguy cơ tai biến trầm trọng như: Băng huyết, vỡ tử cung, nhiễm trùng, mất tim thai, uốn ván sơ sinh, thậm chí tử vong mẹ và con,...
Bộ Y tế đề nghị các sở y tế tỉnh, thành phố thông tin, quán triệt tới các đơn vị trực thuộc có liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tăng cường công tác quản lý thai, chăm sóc thai nghén, đỡ đẻ, chăm sóc sau sinh tại các địa phương, đặc biệt là tuyến cơ sở, nhằm hạn chế tối đa tình trạng đẻ tại nhà, tự đỡ đẻ như trường hợp nêu trên. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông, tuyên truyền vận động người dân tại địa phương đi khám thai và sinh đẻ tại cơ sở y tế, đặc biệt, tránh những hành vi có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của bà mẹ và em bé.