Tự tình mùa thu

Thu Hà Nội đẹp như một “nàng thơ” làm rung động biết bao trái tim thi sĩ. (Ảnh minh họa - nguồn: camnangdulich.com)
Thu Hà Nội đẹp như một “nàng thơ” làm rung động biết bao trái tim thi sĩ. (Ảnh minh họa - nguồn: camnangdulich.com)
Thu Hà Nội đẹp như một mối tình đầu, là hàng cây ươm nắng dịu dàng thướt tha lướt trên tà áo dài của người con gái xứ Tràng An, là bông hoa sữa chớm nở thơm ngát trên phố Nguyễn Du. Thu Hà Nội là vậy đấy, mơ màng, đằm thắm tựa ly rượu ngọt khiến con người càng uống càng chìm đắm trong men say, rồi yêu lúc nào không hay.

Tìm “em” trong thi ca

Hà Nội cũng giống như mùa thu, không nóng bỏng rực rỡ, không lạnh lùng tê tái, mà ấm áp, hây hây gió nhẹ, nắng nhẹ. Bởi thế mà, khi sắc thu vừa chạm ngõ đã làm rung động biết bao nhiêu tâm hồn thi sĩ, trở thành “nàng thơ” trong từng trang viết của họ.

Mùa thu ở Hà Nội, có lẽ là một mùa để yêu. Để con người sống chậm lại, tạm nghỉ giữa cuộc hành trình vội vã ở mùa hè và những bận rộn đang chờ đợi ở các tháng cuối năm. Chỉ khi chậm lại, người ta mới có thể nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn ở xung quanh, để trái tim hồi xuân và rung động thêm lần nữa.

Vì vậy mà thu ở Hà Nội cũng giống như mối tình đầu, khiến con người thao thức, nhớ nhung. Cố nhà thơ Nguyễn Phan Hách, một cây bút tài hoa của mảnh đất quan họ Bắc Ninh đã từng say mê thu Hà Nội giống như một cậu học sinh thầm thương cô bạn hàng xóm: “Tuổi mười lăm em lớn từng ngày/Một buổi sáng bỗng trở thành thiếu nữ/Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ/Hoa sữa thơm ngây ngất bên hồ”. “Nàng thu” giống như người thiếu nữ, nàng mang nụ cười rực rỡ nhất, đôi mắt trong veo nhất. Nàng là bước chân đi qua đời người đàn ông, nhưng không bao giờ trở lại. Chính vì vậy, mùa thu giống như ký ức kín đáo, e ấp, duyên dáng, bảng lảng ẩn hiện trong từng hơi thở, hàng cây lá vàng, sóng nước lăn tăn ở tâm trí con người. Chẳng vậy mà nhạc sĩ Trần Quang Lộc đã phải “thốt lên”: “Có phải em mùa thu Hà Nội/Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm” (Có phải em mùa thu Hà Nội, thơ Tô Như Châu, nhạc Trần Quang Lộc).

Còn cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã sáng tác ca khúc “Nhớ mùa thu Hà Nội”, để “thỏa” cõi lòng đang khát khao, thương nhớ về một mảnh đất vừa mới gặp gỡ đã phải chia xa “Hà Nội mùa thu, đi giữa mọi người/Lòng như thầm hỏi, “Tôi đang nhớ ai?”/Sẽ có một ngày, trời thu Hà Nội trả lời cho tôi/Sẽ có một ngày, từng con đường nhỏ trả lời cho tôi”. Nhạc sĩ họ Trịnh đã chia sẻ bài hát được ra đời khi trái tim ông còn nhớ về những buổi chiều ngồi uống bia cùng những người bạn thân ở trên hồ Tây, thong thả nhìn bầy sâm cầm đáp xuống, bay lên.

Thu Hà Nội có lẽ là vậy, chậm rãi như ánh tà dương dập dềnh trên con sóng hồ Tây, nhưng lại khiến cho người qua đường ngỡ ngàng chiêm ngưỡng vẻ đẹp thư thái của tạo hóa. Trong khoảnh khắc động lòng đó, “nàng thu” đã gợi lên ký ức lăn tăn về mối tình, về chữ “yêu” nhưng lại chẳng trả lời rõ cho con người là “yêu ai?”, “nhớ ai?”. Chỉ để lại một từ “em” mờ ảo khiến cõi lòng vừa man mác buồn, vừa nhớ nhung hồi hộp.

Chính vì thu Hà Nội khiến con người biết yêu, mà tình yêu chẳng thể dừng chân. Nên mọi người cứ lang thang “Ba sáu phố phường đang nhịp hoà dòng chảy/Hà Nội hiên ngang như bình minh thức dậy/Sức trẻ hào hùng lại bừng cháy trong tim”. Cho nên, thu Hà Nội là những chuyến đi. Nhưng không phải “ngao du tứ hải” mà là thong thả đi bộ quanh phố thị xưa cũ trong thành phố. Rồi ngắm nhìn hàng cây chục năm tuổi, mơ màng trước các di tích lịch sử, thơ thẩn đón vài cánh hoa rơi trên mấy xe hàng rong đậu ven đường. Những người yêu thu Hà Nội vì vậy trở thành một kẻ si tình, khao khát tìm hiểu về người mình thầm thương trộm nhớ. Bước chân của họ đi thật chậm qua từng con phố để ngắm kĩ hơn, nhớ lâu hơn, đến khi mỏi mệt, “kẻ si tình” sẽ ngồi bên quán hàng nhâm nhi tách cà phê phin, ăn gói xôi cốm, đợi thời gian từ từ trôi dần.

Có một câu nói, mỗi lần đến Hà Nội chẳng giờ thấy cũ, quả là không sai. Dù thu Hà Nội vẫn vậy, nhưng mỗi lần đến, lại giống như một lần được gặp lại mối tình đầu. Năm ta ba mươi, người ấy vẫn để lại niềm tiếc nuối “Em nghe chăng, trong lắng sâu nơi hồng trái tim mình/Hà Nội mùa thu, ôi xao xuyến trong lòng ta/Như bâng khuâng, nghe gió đưa…” (Hà Nội mùa thu - nhạc sĩ Sỹ Vũ Thanh). Nhưng, năm ta bốn mươi, mối “tình thu” ấy lại gợi lên ký ức ngọt ngào, năm ta năm mươi đưa hồn ta về chuyến đò tuổi trẻ, năm ta sáu mươi đã có thể cùng tình đầu hàn huyên chuyện cũ “Đưa em đi qua thăng trầm, bao tháng năm đã úa màu/Gọi tên từng phố cổ, chiều nhạt nhòa hồ Gươm lung linh/Ngọt ngào hoa sữa thơm/Gọi mùa thu về thật lâu, để ta biết, nồng nàn....” (Nồng nàn Hà Nội - nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường).

Và những mối tình khiến lòng người thương nhớ

Mùa thu ở Hà Nội khiến lòng người nao nao nhớ về mối tình đầu thuở còn ngây ngô. (Ảnh minh họa - nguồn: nguoiduatin.vn)

Mùa thu ở Hà Nội khiến lòng người nao nao nhớ về mối tình đầu thuở còn ngây ngô.

(Ảnh minh họa - nguồn: nguoiduatin.vn)

Nhà văn người Trung Quốc - Trương Ái Linh đã từng có một câu nói về tình yêu như sau, trong đời một người đàn ông sẽ có ít nhất hai người phụ nữ khiến anh ta nhung nhớ không quên. Một người giống như nốt ruồi son (nốt chu sa) mãi mãi in trong ngực, còn một người là ánh trăng (bạch nguyệt quang) chiếu rọi nơi đầu giường. Nếu ví thu Hà Nội giống như một mối tình đầu vô hình, ấm áp tựa ánh trăng khi nhớ về thì mối tình thuở thiếu thời ngoài đời thực xảy ra vào mùa thu ở Hà Nội, giống một nốt ruồi son làm con người day dứt chẳng thể quên.

Tại sao lại như vậy? Vì mùa thu là mùa để yêu, yêu từ phong cảnh thiên nhiên ở Hà Nội, cho đến những thiếu nữ đài các, duyên dáng. Cảnh càng đẹp, người càng thương thì khi về bên nhau càng quyến luyến, mà lúc chia xa lại thành đau lòng.

Đó là câu chuyện của cụ bà Trần Thị Bảo và cụ ông là nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc - người đã sáng tác ra những ca khúc như “Cô lái đò”, “Chiến sĩ sông Lô”,… Được biết, trước thời kháng chiến chống Pháp, cụ bà Trần Thị Bảo là thiếu nữ Hà Nội gốc. Cụ bà sinh ra trong gia đình giàu có, nền nếp, được gọi là tiểu thư. Ở cái tuổi 17, cụ Bảo là một cô gái xinh đẹp, cá tính và được rất nhiều gia đình giàu có ngỏ ý cưới về làm dâu, nhưng cụ đều từ chối. Chỉ đến khi gặp cụ ông là nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc mới nảy sinh tình cảm. Cả hai cụ đều là mối tình đầu của nhau, cụ bà mê cụ ông vì tài hoa, cụ ông say đắm cụ bà bởi tính cách mạnh mẽ, bản lĩnh. Cả hai bị gia đình nhà cụ Bảo phản đối gay gắt. Chỉ đến khi kháng chiến chống Pháp nổ ra, hai cụ mới có cuộc đời tự do. Cụ bà thành một cô giáo ở lớp bình dân học vụ, cụ ông thì từ mặt trận trở về. Vào mùa thu năm 1949, sau những ngày tháng xa cách, hai cụ lấy nhau, về chung một nhà từ ấy cho đến hơn 60 năm sau, khi cụ ông vẫn cầm bút để họa nên những bức hình đẹp nhất cho cụ bà.

Tuy nhiên, không phải mối tình đầu nào nảy nở từ mùa thu ở Hà Nội, thì cũng có những cái kết viên mãn. Như bài hát “Mối tình đầu” của nhạc sĩ Thế Duy “Không ai hiểu vì sao tình yêu tan vỡ/Như hoa ven mặt hồ tàn theo gió mùa thu/Tôi đi xa Thủ đô nhớ về người thiếu nữ”. Chia sẻ về cảm hứng đã thúc đẩy nhạc sĩ viết nên những vần tình ca day dứt này, ông cho biết nó xuất phát từ người con gái tên Hà. Đó là một thiếu nữ sống ở phố Huế (Hà Nội), mà nhạc sĩ Thế Duy đã gặp khi còn trẻ. Hà mang vẻ đẹp duyên dáng của người con gái Hà Nội. Cả hai cũng yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên và Hà chính là mối tình đầu của ông. Nhưng cuối cùng, do còn quá trẻ, mà nhạc sĩ Thế Duy và Hà đã lướt qua đời nhau, như con gió nhẹ khi thu tàn. Để lại trong tim nhà thơ là nỗi đau, day dứt, thương nhớ về một chuyện tình đã qua.

Nhưng tình đầu, có lẽ không phải chỉ là lần đầu tiên một cặp đôi nắm tay nhau, hôn lên má nhau. Mà như họa sĩ nổi tiếng Đặng Ngọc Trân (sinh sống ở Lâm Đồng) từng nói, mối tình đầu thường ngắn ngủi, mộng mơ và có đôi chút phũ phàng, dứt khoát. Tình đầu không nhất thiết phải là người đến trước, mà là người mang lại cho kẻ si tình cảm xúc tiếc nuối, thương nhớ, day dứt suốt cuộc đời này. Bởi đó mới là yêu, chứ không phải chỉ thích đơn thuần.

Giống như câu chuyện của nhà thơ Phùng Quán và một nữ họa sĩ có tiếng vào những năm 70 của thế kỷ trước. Được biết, trong đời Phùng Quán đã có một “nàng thu” chính là người vợ Vũ Bội Trâm. Nhưng vào mùa thu năm 1978, anh vô tình gặp gỡ và quen biết với nữ họa sĩ tài năng này. Nữ họa sĩ là một cô gái đẹp, nồng nhiệt, cá tính, hai người vừa gặp đã như có duyên, rất “tâm đầu, ý hợp”. Hiềm nỗi, vì cả hai đã có gia đình, nên chỉ dừng lại ở mức tri âm, tri kỷ. Khi cô họa sĩ thường xuyên giúp anh đặt tên bài thơ, còn anh tặng nàng lời trò chuyện, tâm sự. Cuối cùng, cô họa sĩ cũng ly dị chồng vì tình cảm mãnh liệt dành cho anh, nhưng đáp lại, nhạc sĩ Phùng Quán chỉ sáng tác những câu thơ đau đớn: “Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống/Tôi chưa yêu cho hết nợ tình yêu/Tôi phải lên rừng/Hái lá khổ sâm/Tự mình cất lấy ly rượu sống…”. Dù thương mến nhau, nhưng nữ họa sĩ này vẫn chỉ trở thành “mối tình đầu thứ hai” của nhà thơ Phùng Quán và khắc ghi vào tâm trí ông cho đến hết cuộc đời.

Tin cùng chuyên mục

Nón làng Chuông - Hồn xưa trong hơi thở đương đại

Nón làng Chuông - Hồn xưa trong hơi thở đương đại

(PLVN) - Giữa dòng chảy hối hả của cuộc sống hiện đại, làng Chuông vẫn lặng lẽ gìn giữ hơi thở truyền thống qua từng chiếc nón lá tinh khôi. Từ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân cao tuổi đến niềm đam mê cháy bỏng và tâm huyết của lớp nghệ nhân trẻ, mỗi chiếc nón nơi đây không chỉ là biểu tượng của văn hóa Việt Nam mà còn vươn ra thế giới, trở thành nhịp cầu kết nối hồn quê với bạn bè quốc tế. "Muốn ăn cơm trắng cá trê / Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông".

Đọc thêm

Vinh danh võ cổ truyền Bình Định

Các võ sinh biểu diễn trong Lễ cúng tổ võ cổ truyền. (ảnh: H. Trường)
(PLVN) - “Ai về Bình Định mà coi. Con gái Bình Định cầm roi, đi quyền” - câu ca dao này bao đời nay vẫn luôn khiến người dân Bình Định tự hào về quê hương được mệnh danh là “miền đất võ”. Võ cổ truyền Bình Định đang được xây dựng hồ sơ khoa học đệ trình UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Rộn ràng sắc màu truyền thống đón Tết Nguyên đán

Những món đồ trang trí đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống rất được người dân ưa chuộng. (Ảnh: PV)

(PLVN) - Chỉ còn khoảng ba tuần nữa sẽ đến Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Năm 2025, xu hướng đón Tết cổ truyền hướng về những giá trị văn hóa truyền thống. Những sản phẩm dân gian mộc mạc, gần gũi đang được nhiều khách hàng lựa chọn. Các địa điểm, hoạt động mang đậm văn hóa truyền thống cũng đang là ưu tiên của người dân.

Phố xưa, nghề cũ trên mảnh đất Kinh kỳ

Phố Hàng Mã xưa buôn bán đồ vàng mã dùng trong lễ cúng, đồ trang trí và đồ chơi dân gian làm từ giấy. (Ảnh: Tư liệu)
(PLVN) - Nhắc đến Hà Nội, không ai không biết đến khu phố cổ - nơi được ví như “hồn cốt” của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Từ xưa đến nay, nơi đây là trung tâm buôn bán sầm uất với 36 phố phường, mỗi con phố gắn liền với một nghề thủ công truyền thống như Hàng Bạc, Hàng Đồng, Lò Rèn... Những tên gọi ấy không chỉ khơi gợi ký ức về một thời phồn hoa, mà còn tái hiện khung cảnh buôn bán và văn hóa đặc sắc của người Hà Nội xưa.

100.000 du khách đến với Liên hoan ẩm thực Quảng Ninh

Các đại biểu bấm nút khai mạc liên hoan.
(PLVN) - Ngày 29/12, Liên hoan ẩm thực Quảng Ninh năm 2024 với chủ đề “Quảng Ninh - Điểm đến hội tụ tinh hoa ẩm thực” diễn ra ngày 26 - 29/12 tại Quảng trường Sun Carnival Plaza (phường Bãi Cháy, TP Hạ Long), thu hút hơn 100.000 du khách.

Chiêm bái ngôi đền Chầu Đệ tứ có tòa thạch động niên đại 600 năm

Chiêm bái ngôi đền Chầu Đệ tứ có tòa thạch động niên đại 600 năm
(PLVN) - Đền Chầu Đệ tứ tọa lạc tại xã Hà Ngọc (Hà Trung, Thanh Hóa) hấp dẫn du khách bởi nét kiến trúc độc đáo và tiếng hát văn sâu lắng, mênh mang bên dòng sông Lèn. Không chỉ có giá trị về lịch sử, văn hóa, đền còn đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Đây thật sự là điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh, đặc biệt vào những ngày đầu xuân, lễ hội.

Di sản ca trù trong công nghiệp văn hóa

Hoạt động hát ca trù tại đền Quan Đế (Hà Nội) thu hút du khách trong và ngoài nước. (Ảnh: Tất Sơn)

(PLVN) - Việc đưa ca trù thành một sản phẩm văn hóa phục vụ nhu cầu du lịch trong bối cảnh công nghiệp văn hóa là cơ hội để bảo tồn, phát huy và quảng bá loại hình nghệ thuật này. Song, điều quan trọng là làm sao vừa đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của công chúng đương đại, vừa giữ gìn được bản sắc truyền thống, giá trị cốt lõi.

Tôn vinh di sản của 'Y thánh Việt Nam'

Bộ mộc bản sách “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” của Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có niên đại năm 1885, được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2021.
(PLVN) - Kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, nhằm khẳng định cống hiến to lớn của đại danh y với ngành y học, văn học, văn hóa, lịch sử của Việt Nam và thế giới, Trung tâm Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam mới đây đã phối hợp cùng các đơn vị liên quan thực hiện Triển lãm “Di sản của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác”.

Dù đi đâu, vẫn là giọng quê hương

 Đường vô xứ Nghệ quanh quanh (ảnh minh hoạ Sở KHCN Nghệ An)
(PLVN) - Giọng Nghệ An, đối với tôi, không chỉ là âm thanh của ngôn ngữ, mà còn là một phần không thể thiếu của tâm hồn, là hơi thở trong lành của đất mẹ. Mỗi lần cất lên, tiếng nói ấy gợi cho tôi những kỷ niệm của một thời thơ ấu, những ngày tháng hồn nhiên dưới mái nhà đơn sơ, làn gió mát lành của cánh đồng xanh bao la bát ngát, là những ánh mắt đậm tình thân thương của những người dân quê mộc mạc. Dù có đi đâu, làm gì, ở đâu đi chăng nữa, giọng Nghệ An vẫn luôn theo tôi, như một phần không thể thiếu trong bản sắc của chính mình.

Tỏa sáng hồn quê điệu Ví, Giặm Nghệ Tĩnh

Các tập thể, cá nhân được Bộ VHTT&DL tặng bằng khen vì có đóng góp xuất sắc trong bảo tồn, phát huy dân ca Ví, Giặm.
(PLVN) - 2024 là năm vô cùng ý nghĩa đối với Nhân dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, bởi đây là năm dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh tròn 10 năm được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Nhà Nguyễn bảo vệ Kinh thành Huế

Nhà Nguyễn bảo vệ Kinh thành Huế
(PLVN) - Cùng với xây dựng một kinh thành rộng lớn, vững chãi, nhà Nguyễn đã tuyển chọn đội quân thiện chiến để bảo vệ vương triều trong một thời đại bị nhòm ngó, xâm lược.

'Đánh thức' tiềm năng kinh tế sáng tạo từ các di sản

Di sản văn hóa đang dần trở thành “đòn bẩy” thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. (Ảnh minh họa: PV)
(PLVN) - Với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam sở hữu hệ thống di tích, lễ hội, ẩm thực, nghệ thuật dân gian, làng nghề truyền thống phong phú. Văn hóa được coi là nền tảng và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển văn hóa được đặt ngang hàng với các lĩnh vực khác. Đặc biệt, nguồn lực từ di sản đang từng bước được các tỉnh, thành phố đầu tư, khai thác nhằm thúc đẩy kinh tế sáng tạo.

Đặc sắc Lễ hội đua thuyền tứ linh ở đảo Lý Sơn

Trải qua gần 200 năm, Lễ hội đua thuyền tứ linh ở Lý Sơn vẫn được gìn giữ, phát huy. (Ảnh: Alex Cao)
(PLVN) - Lễ hội đua thuyền tứ linh là nét văn hóa truyền thống dân gian mang đậm bản sắc của cư dân huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Người dân Lý Sơn tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ cội nguồn tổ tiên, các vị tiền hiền buổi đầu khai sinh đất đảo và đội hùng binh Hoàng Sa đã có công bảo vệ biên cương Tổ quốc cũng như cầu cho mưa thuận gió hòa, làng xóm yên bình, mùa màng tươi tốt.

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể
(PLVN) - Tập quán văn hóa và tín ngưỡng Lễ Cúng rừng của người Mông và Nghệ thuật trình diễn dân gian Khắp Cọi của người Tày ở Yên Bái được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Đưa hát xẩm đến gần hơn với công chúng

Nghệ sĩ Vũ Thùy Linh lựa chọn dân ca nguyên gốc được phối bởi dàn nhạc giao hưởng cho album mới có tên “Tơ đồng thánh thót”. (Ảnh: L.Thủy)
(PLVN) - Mang nét văn hóa, sử dụng chất liệu âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại là cách mà nhiều nghệ sĩ trẻ đang hướng đến. Đây cũng là một trong những đóng góp của các nghệ sĩ cho đời sống âm nhạc, để nền âm nhạc đậm đà bản sắc Việt vươn ra với thế giới.