Từ chiến dịch xóa nạn mù chữ đến 3 cuộc cải cách lớn của nền giáo dục Việt Nam
(PLVN) - Trong hành trình 80 năm giành độc lập và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách lớn về lĩnh vực này đã được ban hành và điều chỉnh phù hợp với sự phát triển của đất nước qua từng giai đoạn. Trong đó, chiến dịch xóa nạn mù chữ và 3 cuộc cải cách giáo dục là những dấu mốc mang tính bước ngoặt, góp phần định hình diện mạo nền giáo dục Việt Nam.
Khởi đầu từ chiến dịch xóa nạn mù chữ
Ngược dòng lịch sử, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cục diện thế giới có nhiều biến đổi, mở ra một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới. Đáng chú ý, sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ cùng mục tiêu phát triển kinh tế đã đặt ra yêu cầu về nguồn nhân lực dồi dào. Đây chính là một trong những động lực thúc đẩy nhiều quốc gia tiến hành cải cách giáo dục. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là mốc son đánh dấu sự ra đời của một nước Việt Nam mới. Đây cũng là dấu mốc lịch sử quan trọng của nền giáo dục, mở đầu cho một giai đoạn đặc biệt, khắc phục tình trạng trì trệ, lạc hậu kéo dài nhiều năm. Tuy nhiên, ngay sau ánh hào quang của ngày độc lập, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã đứng trước một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: hơn 95% dân số mù chữ, nạn đói tàn khốc cướp đi sinh mạng hàng triệu người, “thù trong, giặc ngoài” bủa vây, ngân khố trống rỗng,…
Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ, điều kiện không cho phép đất nước tiến hành cải cách giáo dục ngay. Thay vào đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu được Chính phủ đề ra là xóa mù chữ, “diệt giặc dốt”. Chính vì vậy, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó chiến dịch xóa nạn mù chữ đóng vai trò quan trọng thứ hai, chỉ sau xóa nạn đói.
Chiến dịch xóa nạn mù chữ chính thức được phát động từ ngày 8/9/1945 khi Chính phủ ban hành liền ba Sắc lệnh số 17, 19 và 20. Để phục vụ cho chiến dịch, Nha Bình dân học vụ được ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có “ít ra là một lớp bình dân” và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc. Hóa huấn luyện cán bộ bình dân học vụ đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh được mở tại Hà Nội.
Từ đó, phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng được triển khai, lan rộng và đi sâu vào từng thôn xóm, bản làng. Bình dân học vụ trở thành một phong trào Nhân dân thực sự với những hình thức tổ chức hết sức linh động, thích nghi với điều kiện sinh hoạt của Nhân dân lao động. Nhờ đó, chỉ một năm sau ngày phát động phong trào Bình dân học vụ, đã có 75.000 lớp học được tổ chức với sự tham gia của 95.000 giáo viên; trên 2,5 triệu người đã biết đọc, biết viết.
Ngày 19/12/1946, khi kháng chiến bùng nổ trên toàn quốc, chiến dịch xóa nạn mù chữ của Nhân dân Việt Nam vẫn được duy trì bền bỉ, không ngừng nghỉ. Các lớp học theo chân đồng bào tản cư kháng chiến, đi theo các đoàn dân công tiếp vận. Theo thời gian, phong trào Bình dân học vụ đã được nâng lên một bước, không chỉ dạy cho dân biết đọc, biết viết mà còn phải dạy cho đồng bào kiến thức khoa học thường thức, nâng cao dần trình độ dân trí.
Cải cách giáo dục năm 1950
Những năm tiếp theo, mặc dù khó khăn chồng chất khó khăn nhưng cuộc kháng chiến năm 1950 đã thu được nhiều kết quả tích cực. Sau Chiến thắng Biên giới Thu Đông, nước ta thoát cảnh bị bao vây, mở thông đường đến với các nước anh em. Triển vọng thắng lợi ngày càng rõ rét đã đặt ra cho giáo dục những nhiệm vụ cấp bách: vừa phục vụ kháng chiến mạnh hơn, vừa chuẩn bị cho công cuộc kiến thiết đất nước sau kháng chiến.
Từ yêu cầu đó, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm “học để kháng chiến” và cuộc cải cách giáo dục toàn diện năm 1950 là đỉnh cao của sự chuyển mình này. Cuộc cải cách đặt nền móng cho một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông bằng việc thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn.
Chưa hết, toàn bộ chương trình và sách giáo khoa được xây dựng lại theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc. Với 3 nguyên tắc: Dân tộc hóa (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hóa (chống lối học giáo điều) và đại chúng hóa (phục vụ đông đảo Nhân dân).
Đây cũng là lần đầu tiên, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giảng dạy chính thức ở mọi bậc học - một bước chuyển mình mang ý nghĩa lịch sử, vừa khẳng định chủ quyền văn hóa, vừa mở rộng cơ hội học tập cho đông đảo Nhân dân. Trường lớp dù còn đơn sơ, thiếu thốn nhưng vẫn là nơi hun đúc tinh thần yêu nước và bồi đắp ý chí kháng chiến.
Chính nhờ sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ, phong trào Bình dân học vụ ngày càng phát triển. Từ 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ năm 1946, tới năm 1948 là 6 triệu người và đến năm 1952 là 10 triệu người. Chiến dịch xóa nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành. Những thành tựu này có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ thúc đẩy giáo dục mà còn góp phần xứng đáng vào Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.

Cải cách giáo dục năm 1956
Giai đoạn 1954 - 1975 là khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập. Miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam chịu sự chi phối của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Do đó, Đảng và Nhà nước xác định giáo dục là một mặt trận trọng yếu, gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956).
Thời điểm này, nền giáo dục miền Bắc tiến hành cải cách giáo dục, hình thành hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện, gắn đào tạo với thực tiễn. Mục tiêu là xây dựng nhà trường lao động với nguyên lí giáo dục: “Học đi với lao động/Lí luận đi với thực hành/Cần cù đi với tiết kiệm”. Phong trào “Hai tốt” được triển khai rộng khắp, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Số lượng trường đại học tăng nhanh, từ 5 trường lên 17 trường, đào tạo hàng vạn cán bộ, kỹ sư, bác sĩ để xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Nền giáo dục miền Nam duy trì song song hai hệ thống: giáo dục dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa và giáo dục trong vùng giải phóng. Giáo dục cách mạng tại vùng giải phóng cũng có những bước đầu phát triển mạnh mẽ. Một hệ thống giáo dục riêng được xây dựng với chương trình và sách giáo khoa phù hợp, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến. Dù gặp nhiều khó khăn, mạng lưới trường lớp vẫn mở rộng, linh hoạt, thể hiện sự bền bỉ của nền giáo dục cách mạng.
Cải cách giáo dục năm 1979
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được tiến hành vào năm 1979, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Thực tế, công tác chuẩn bị cho cuộc cải cách này đã được bắt đầu từ năm 1960. Song do kháng chiến cùng nhiều yếu tố khách quan, sau giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước năm 1975, cuộc cải cách vẫn chưa thể triển khai. Phải đến năm 1979, sau cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục ra đời, được xem là văn kiện pháp lý quan trọng, khởi động cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba.
Ở cuộc cải cách này, ngành Giáo dục Việt Nam đã có nỗ lực phi thường, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử là thống nhất hệ thống giáo dục trên cả nước. Cụ thể, xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc, trong đó, bậc phổ thông cơ sở 9 năm và bậc phổ thông trung học 3 năm, xóa bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam. Đồng thời, lần đầu tiên ban hành một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.

Về nguyên lý giáo dục, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba tiếp tục kế thừa tinh thần của lần thứ hai là “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Đồng thời, mục tiêu đào tạo cũng được xác định rõ ràng là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng chịu tác động nặng nề của khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguồn ngân sách hạn hẹp, cơ sở vật chất xuống cấp, đời sống giáo viên nhiều khó khăn khiến chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng rõ rệt. Dẫu vậy, cuộc cải cách năm 1979 vẫn mang ý nghĩa quan trọng, khi lần đầu tiên thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, tạo nền tảng cho sự đổi mới sâu rộng trong các giai đoạn tiếp theo.
Có thể nói, từ chiến dịch xóa nạn mù chữ đến 3 cuộc cải cách giáo dục diễn ra từ năm 1950 đến năm 1979 đều là những dấu mốc mang tính bước ngoặt, góp phần định hình diện mạo nền giáo dục Việt Nam. Để từ đó, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của đất nước.
Ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 71/NQ-TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây không chỉ là văn kiện mang tính định hướng chiến lược cho ngành Giáo dục đến năm 2045, mà còn lần đầu tiên khẳng định: giáo dục - đào tạo là nhân tố quyết định vận mệnh của dân tộc. Thông điệp mạnh mẽ ấy được ví như ngọn lửa mới thắp sáng khát vọng Việt Nam hùng cường, trường tồn.