Khái quát về chủ trương phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Tại Hội nghị trung ương 5 Khóa XII (năm 2017), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết đã xác định rõ phát triển kinh tế tư nhân “là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”. “Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng.
Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực”. “Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu … có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu”.
Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2021). Ngày 10/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới.
Nghị quyết này chủ trương phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước.
Phấn đấu ngày càng có nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, một số doanh nghiệp đạt tầm thế giới; một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt; một số doanh nghiệp có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, làm chủ một số chuỗi giá trị công nghiệp, nông nghiệp, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn.
Trên cơ sở những định hướng, chủ trương đó, Nhà nước đã quan tâm hoàn thiện các quy định về sở hữu, hợp đồng, tự do kinh doanh, cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp để khu vực kinh tế tư nhân phát triển, thể hiện trong các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2020 v.v.
Trong thực tế, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế không ngừng được nâng cao với khoảng 900 nghìn doanh nghiệp hoạt động, đóng góp gần 45% GDP, khoảng 1/3 thu ngân sách Nhà nước (NSNN), hơn 40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, tạo công ăn việc làm cho 85% lực lượng lao động; chiếm 35% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đóng góp gần 45% GDP, khoảng 1/3 thu ngân sách Nhà nước (Ảnh minh họa) |
Thu NSNN từ sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân tăng hơn 15%/năm, cao gấp hai lần khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi nộp NSNN từ sản xuất, kinh doanh của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đang có xu hướng giảm.
Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp lớn nhất vào đầu tư và tăng trưởng GDP của Việt Nam, gấp đôi khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), gấp rưỡi khu vực kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân cũng tạo ra khoảng 45 triệu việc làm.
Việt Nam ngày càng có nhiều tập đoàn lớn thuộc khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư vào các công trình hạ tầng quy mô lớn, những dự án sân bay, cảng biển, đường cao tốc hoặc những lĩnh vực khó như hạ tầng năng lượng, sản xuất ô tô, điện thoại thông minh, như các tập đoàn: Vingroup, Sun Group, Trường Hải Thaco, Hòa Phát, Masan, FPT, Vinamilk, BRG, T&T Group, Vietjet, TH… Trong đó, có những thương hiệu không những được ghi nhận ở thị trường trong nước mà ở cả thị trường khu vực và quốc tế[1].
Một số hạn chế, bất cập về thể chế trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật
Mặc dù vậy, thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân cho thấy, trình độ công nghệ, quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của một số doanh nghiệp còn thấp, cơ cấu ngành nghề bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác. Đặc biệt, môi trường thể chế chi phối tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn không ít hạn chế, bất cập mà một số chuyên gia đã chỉ ra.
Cụ thể: vẫn còn có sự phân biệt đối xử, nhất là của một bộ phận cán bộ, công chức, thậm chí là người dân đối với khu vực kinh tế tư nhân. Chính sách cạnh tranh chưa hiệu quả, còn có sự không bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực giữa các thành phần kinh tế, sự khác biệt trong quá trình thực thi chính sách.
Chưa có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đổi mới sáng tạo, tạo ra sản phẩm cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cải cách hành chính chưa đạt mục tiêu 3 giảm (giảm thời gian, giảm chi phí, giảm giấy tờ). Thủ tục còn rườm rà, trùng lắp, chồng chéo ở nhiều khâu.
Bên cạnh đó, thể chế cho một số ngành, lĩnh vực kinh doanh mới phát sinh từ việc ứng dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn v.v.) chậm được xây dựng và hoàn thiện.
Chính vì thế, để phát huy hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đã đến lúc cần đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm tối ưu hóa hơn nữa môi trường thể chế phát triển kinh tế tư nhân, biến các chủ trương, đường lối của Đảng thành các quy định pháp luật cụ thể, qua đó, vừa củng cố thành quả của quá trình 40 năm đổi mới cải cách, củng cố thêm niềm tin của khu vực kinh tế tư nhân vào hệ thống pháp luật, các cơ quan công quyền, thúc đẩy mọi doanh nghiệp và doanh nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân tham gia một cách trách nhiệm vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế thúc đẩy hơn nữa khu vực kinh tế tư nhân phát triển trên cơ sở tư duy mới trong xây dựng pháp luật
Thứ nhất, cần tiến hành rà soát kỹ lưỡng các vấn đề mà kinh tế tư nhân đang phải đối mặt, tổng hợp và phân loại các văn bản chính sách liên quan, tiến hành khảo sát thực tế tại địa phương, tổ chức nhiều hội thảo để lắng nghe ý kiến từ đại diện các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, các chuyên gia và nhà khoa học.
Chính phủ, các Bộ, ngành phụ trách lĩnh vực kinh tế và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần đưa công tác thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch công tác hàng năm, nhất là trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm, xác định rõ đầu mối phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh trong phát triển kinh tế tư nhân.
Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần có kế hoạch cụ thể xây dựng đội ngũ doanh nhân có tinh thần yêu nước cao, trách nhiệm xã hội lớn, tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh, ý thức rõ sứ mệnh vinh quang, tận tụy kinh doanh và đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội đất nước.
Coi các vấn đề mà kinh tế tư nhân đang gặp phải chính là vấn đề cần ưu tiên giải quyết theo thẩm quyền trong kế hoạch công tác hàng năm của Chính phủ, Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp.
Các cơ quan truyền thông cần tăng cường tuyên truyền về khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp và doanh nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân có thành tích xuất sắc, hỗ trợ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và doanh nhân tham gia các hoạt động bình chọn, khen thưởng, thúc đẩy hình thành môi trường xã hội tôn vinh tinh thần yêu lao động, tính sáng tạo, tôn trọng doanh nhân, doanh nghiệp.
TS Nguyễn Văn Cương cho rằng, cần dứt khoát xóa bỏ tâm lý phân biệt đối xử của một bộ phận cán bộ, công chức, người dân đối với khu vực kinh tế tư nhân |
Xác định rõ việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững, lành mạnh và chất lượng cao là chủ trương nhất quán, lâu dài đồng thời doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và doanh nhân có trách nhiệm tích cực tham gia xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, hiện đại, tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức xã hội và đạo đức kinh doanh, thực hiện trách nhiệm xã hội và chịu sự giám sát của Nhà nước và xã hội.
Dứt khoát xóa bỏ tâm lý phân biệt đối xử của một bộ phận cán bộ, công chức, người dân đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Thứ hai, bảo đảm không gian tự do phát triển thuận lợi nhất để mọi người dân và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân giải phóng mọi tiềm năng, sức sản xuất, sức sáng tạo, bảo đảm sự bình đẳng trong đối xử trước pháp luật và bình đẳng trong bảo hộ.
Thực hiện đầy đủ các chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trong thiết kế quy định pháp luật đó là dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, “không biết mà vẫn quản”, quán triệt tư duy "ai quản lý tốt nhất thì giao", "người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm", "cái gì cấm thì đưa vào luật, cái gì không cấm thì tạo không gian cho sáng tạo", "cái gì doanh nghiệp và người dân làm được, làm tốt hơn thì Nhà nước dứt khoát không làm".
Bảo đảm đối xử bình đẳng và bảo hộ bình đẳng đối với doanh nghiệp thuộc khu kinh tế tư nhân và doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác, kiên trì bảo đảm mọi tổ chức kinh tế đều được hưởng địa vị pháp lý, cơ hội thị trường và quyền phát triển ngang nhau. Bảo đảm doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được tham gia cạnh tranh công bằng trên thị trường.
Quy định rõ ngành nghề, lĩnh vực thuộc danh mục cấm tiếp cận thị trường, ngành nghề, lĩnh vực thuộc danh mục tiếp cận thị trường với điều kiện và thủ tục nhất định. Ngoài danh mục cấm tiếp cận thị trường, mọi tổ chức kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đều có thể tham gia thị trường một cách bình đẳng theo pháp luật.
Quy định cơ chế đánh giá tác động đối với cạnh tranh công bằng trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, dứt khoát loại bỏ các rào cản tiếp cận thị trường, cấm hạn chế hoặc loại trừ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong đấu thầu và mua sắm của chính quyền các cấp. Không ngừng tối ưu hóa môi trường phát triển kinh tế tư nhân theo hướng bảo đảm tính ổn định, sự công bằng, tính minh bạch và có thể dự đoán.
Thứ ba, khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn để doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hoạt động đúng pháp luật, tích cực tham gia thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và ở mỗi địa phương. Khuyến khích mạnh mẽ tinh thần doanh nhân và tinh thần đổi mới sáng tạo trong khu vực kinh tế tư nhân.
Thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội đối với mọi doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cũng như doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác. Thúc đẩy sự trưởng thành lành mạnh của đội ngũ doanh nhân. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải tuân thủ pháp luật, không được xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không được thu lợi bằng các hình thức gian lận, xâm phạm môi trường sinh thái, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người lao động, lợi ích công cộng và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Xây dựng văn hóa liêm chính trong giao tiếp, ứng xử giữa doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân với cán bộ, công chức và chính quyền các cấp. Thúc đẩy doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hoàn thiện cấu trúc quản trị và chế độ quản lý, quy phạm hóa hành vi của người quản lý.
Thứ tư, hỗ trợ ứng dụng tri thức khoa học tiên tiến, đổi mới và nâng cấp công nghệ: Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát huy vai trò tích cực trong việc phát triển các lực lượng sản xuất mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tiếp cận và ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới nhất, đẩy nhanh tốc độ nâng cấp công nghệ để tạo ra các ngành công nghiệp mới, mô hình kinh doanh mới, động lực mới và nâng cao sức cạnh tranh.
Hỗ trợ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tham gia các dự án nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp quốc gia và đối với doanh nghiệp có đủ năng lực được khuyến khích chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển công nghệ quan trọng.Mở cửa các cơ sở nghiên cứu khoa học lớn của quốc gia cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận, sử dụng, khai thác.
Khuyến khích các nền tảng công nghệ công cung cấp dịch vụ bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong việc đổi mới công nghệ. Thúc đẩy sự kết hợp sâu sắc giữa sản xuất, giáo dục, đào tạo và nghiên cứu.Bảo đảm doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được tham gia xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định pháp luật. Hỗ trợ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khai thác và sử dụng hợp pháp các cơ sở dữ liệu công khai của nhà nước.
Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và doanh nhân.
Thứ năm, tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đối với quá trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật của chính quyền các cấp: Khi xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách liên quan mật thiết đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, phải tiến hành lấy ý kiến góp ý một cách thực chất từ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật hành chính, thực thi công vụ liên quan tới doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Dứt khoát xóa bỏ tình trạng chồng chéo trong quy định pháp luật và trong thực thi pháp luật.
Thứ sáu, tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và doanh nhân: Dứt khoát xóa bỏ việc sử dụng biện pháp hành chính và hình sự để can thiệp trái pháp luật vào các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Tăng cường bảo đảm thanh toán công nợ của cơ quan, tổ chức với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, quy định chi tiết về việc thanh toán công nợ và quy trình hòa giải, thương lượng trong trường hợp nợ quá hạn.
Khắc phục tình trạng bất cân xứng về vị thế trong quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các quan hệ hợp tác, ngăn ngừa khả năng các doanh nghiệp lớn khi mua hàng hóa, công trình, dịch vụ từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ lấy lý do chờ nhận được khoản thanh toán từ bên thứ ba làm điều kiện thanh toán cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
TS. Nguyễn Văn Cương
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý
Bộ Tư pháp