Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam: 'Lệnh cấm thuốc lá điện tử là bước đi dũng cảm, quyết đoán để bảo vệ thế hệ trẻ Việt Nam'

Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam: 'Lệnh cấm thuốc lá điện tử là bước đi dũng cảm, quyết đoán để bảo vệ thế hệ trẻ Việt Nam'
Tiến sĩ Angela Pratt - Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam.

(PLVN) - Tiến sĩ Angela Pratt - Trưởng đại diện WHO tại Việt Nam trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam về bước đi mạnh mẽ của Việt Nam với Nghị quyết 173/2024/QH15, tác động ban đầu của Nghị quyết và những khuyến nghị từ WHO trong công cuộc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ.

- Bà cho biết, WHO đánh giá như thế nào về việc Việt Nam ban hành Nghị quyết 173/2024/QH15 cấm toàn diện đối với thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng (TLNN) từ năm 2025, trong khi nhiều quốc gia vẫn lựa chọn hướng kiểm soát?

Tiến sĩ Angela Pratt: Vào tháng 11 năm ngoái, Quốc hội đã đưa ra một quyết định lịch sử về việc cấm thuốc lá điện tử và TLNN ở Việt Nam. Đây là một quyết định rất, rất quan trọng: quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và đặc biệt quan trọng đối với sức khỏe của những người trẻ tuổi. Điều này là do những sản phẩm này không an toàn và rất có hại cho sức khỏe.

Khi cấm những sản phẩm nguy hiểm này, Quốc hội Việt Nam đã cho thấy rõ rằng những sản phẩm này không có chỗ đứng trong xã hội hoặc tương lai của chúng ta.

Trong năm qua, mặc dù quy định cấm vẫn chưa được thực thi đầy đủ, nhưng chúng ta đã thấy một số dấu hiệu đầy hứa hẹn cho thấy lệnh cấm đã bắt đầu có tác dụng.

Trung tâm chống độc Bạch Mai cho biết trong 22 tháng trước khi có lệnh cấm, Trung tâm đã điều trị cho 120 người (khoảng 5-6 người mỗi tháng) cần cấp cứu vì họ đã sử dụng thuốc lá điện tử, một số bị tổn thương não nghiêm trọng. Kể từ khi có lệnh cấm, Trung tâm đã nhận thấy giảm rõ rệt, chỉ còn 1-2 người cần được điều trị cấp cứu mỗi tháng (vì thuốc lá điện tử). Cũng sau lệnh cấm, việc quảng cáo trắng trợn các sản phẩm này của những người có ảnh hưởng dường như đã dừng lại.

Để đảm bảo Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu của lệnh cấm để bảo vệ thanh thiếu niên khỏi bị tổn hại vì các sản phẩm này - Nghị quyết sẽ cần được thực thi đầy đủ càng sớm càng tốt.

Đúng là một số quốc gia đã chọn phương án quản lý các sản phẩm này, thay vì cấm chúng. Nhưng họ phải đối mặt với nhiều thách thức. Ví dụ, các sản phẩm nicotine và thuốc lá mới có rất nhiều kiểu dáng, mà ngành công nghiệp thuốc lá liên tục thay đổi để lách các quy định quản lý. Điều này tạo ra lỗ hổng pháp lý, khiến việc thực thi hiệu quả gần như không khả thi.

Ấn Độ là một ví dụ về một quốc gia đầu tiên cho phép quản lý các sản phẩm này nhưng sau đó cấm chúng. Trước năm 2019, những sản phẩm này đã được bán rộng rãi ở Ấn Độ. Từ năm 2019, những lo ngại về sức khỏe cộng đồng ngày càng tăng, đặc biệt là về sự gia tăng của sử dụng thuốc lá điện tử ở thanh thiếu niên và vấn đề có nhiều thành phần không thể kiểm soát hiệu quả trong dung dịch thuốc lá điện tử, đã thúc đẩy Chính phủ hành động. Giờ đây, Ấn Độ đã cấm hoàn toàn việc sản xuất, nhập khẩu, bán và phân phối thuốc lá điện tử và TLNN.

Trên toàn cầu, 42 quốc gia khác đã cấm thuốc lá điện tử và 24 quốc gia đã cấm TLNN. Trong khu vực ASEAN, năm quốc gia đã cấm thuốc lá điện tử và TLNN bao gồm Campuchia, Lào, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Brunei đã cấm thuốc lá điện tử và Malaysia sẽ cấm thuốc lá điện tử từ năm 2026.

- Một số ý kiến cho rằng việc cấm có thể dẫn đến “thị trường ngầm”, WHO nhìn nhận vấn đề này ra sao, thưa bà?

Tiến sĩ Angela Pratt: Tương tự như tình hình với thuốc lá thông thường, buôn lậu thuốc lá điện tử và TLNN là một vấn đề toàn cầu kinh niên khi có các tổ chức cố gắng trốn tránh việc nộp thuế nhập khẩu, thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt để kiếm thêm lợi nhuận.

Nghị quyết 173 với quy định cấm toàn diện của Việt Nam giúp cho việc xác định và xử lý thuốc lá điện tử và TLNN trở nên dễ dàng hơn. Bất kỳ sản phẩm nào trên thị trường đều là sản phẩm bất hợp pháp, nhập lậu, qua đó sẽ giúp việc thực thi chống buôn lậu dễ dàng hơn. 

Tuy nhiên, nếu Việt Nam cho phép các trường hợp ngoại lệ, ví dụ như cho phép TLNN được sản xuất từ thuốc lá nguyên chất sẽ rất khó hoặc không thể phân biệt các sản phẩm được phép với các sản phẩm bị cấm. Tương tự, bất kỳ việc cho phép sản xuất trong nước để xuất khẩu sẽ khiến việc ngăn chặn thị trường ngầm trở nên khó khăn hơn nhiều. Điều này là do các sản phẩm được sản xuất để xuất khẩu sẽ bị rò rỉ ra thị trường nội địa.

- Bà có thể chia sẻ thêm quan điểm của WHO về việc Việt Nam thực hiện lệnh cấm đến thời điểm hiện nay, đặc biệt là về chiến lược truyền thông của Việt Nam trong công tác kiểm soát thuốc lá mới?

Tiến sĩ Angela Pratt: Về mặt chính sách, Chính phủ đã và đang xây dựng một nghị định để định nghĩa các sản phẩm này và qui định mức phạt đối với việc vi phạm lệnh cấm. Đây là một nhiệm vụ đầy thách thức và mất nhiều thời gian hơn dự kiến. Chúng tôi hy vọng và dự đoán rằng nghị định sẽ sớm được ban hành.

Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên truyền thông về tác hại của các sản phẩm này, đặc biệt là trong quá trình tranh luận về chính sách về lệnh cấm. WHO tự hào đã hỗ trợ những nỗ lực mạnh mẽ của Bộ Y tế, cùng với các đối tác y tế công cộng như tổ chức Vital Strategies, tổ chức Chiến dịch vì trẻ em không thuốc lá (CTFK) và HealthBridge. Ví dụ, các đối tác đã tổ chức hội thảo cung cấp thông tin cho các nhà báo về tác hại của các sản phẩm này, và kết quả là nhiều bài báo đã được đăng qua đó cảnh báo công chúng về sự nguy hiểm của các sản phẩm này.

Nhận thức của công chúng về các rủi ro đã được nâng cao nhờ thông tin mà Bộ Y tế thu thập từ tất cả các bệnh viện về các trường hợp cấp cứu liên quan đến thuốc lá điện tử và TLNN. Năm 2023, Bộ Y tế đã báo cáo hơn 1200 trường hợp từ cấp cứu từ hơn 700 bệnh viện do sử dụng các sản phẩm này.

Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các hướng dẫn và chỉ đạo trong mạng lưới của họ về tác hại của các sản phẩm này và cách giảng dạy cho học sinh về tác hại của chúng. Tất nhiên sẽ cần truyền thông nhiều hơn, đặc biệt là về mức phạt đối với từng loại vi phạm để những người vi phạm tiềm năng sẽ được cảnh báo và ngăn chặn việc vi phạm lệnh cấm.

-Từ góc độ nghiên cứu, WHO hiện có chương trình hay dự án nào hỗ trợ Việt Nam trong việc đánh giá tác động thực tế của thuốc lá điện tử không, thưa bà?

Tiến sĩ Angela Pratt: Cuộc Khảo sát hành vi sức khỏe học sinh toàn cầu tại Việt Nam của WHO đã cho thấy sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ sử dụng các sản phẩm thuốc lá điện tử và TLNN của thanh thiếu niên trong những năm gần đây. Năm 2019, khảo sát cho thấy khoảng 2,6% thanh niên từ 13-17 tuổi ở Việt Nam đang sử dụng thuốc lá điện tử. Một cuộc khảo sát năm 2023 của Bộ Y tế cho thấy việc sử dụng đã tăng lên hơn 7%. Sự gia tăng mạnh mẽ này là cơ sở quan trọng cho việc ban hành lệnh cấm mạnh mẽ của Quốc hội đối với các sản phẩm này.

WHO cũng đang hỗ trợ các đối tác quốc gia thực hiện một cuộc khảo sát để đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của thanh thiếu niên về các sản phẩm độc hại này.

Tuy nhiên, đây là những sản phẩm mới và không ngừng phát triển, và nghiên cứu thường bị tụt hậu so với mức độ thay đổi trong tỷ lệ sử dụng sản phẩm, đặc biệt là trong giới trẻ.

WHO khuyến nghị có thêm các nghiên cứu thêm về nhiều tác hại sức khỏe khác nhau của các sản phẩm này và Việt Nam có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của WHO về điều này.

- Cuối cùng, bà có thông điệp nào muốn gửi tới các nhà hoạch định chính sách và giới truyền thông Việt Nam trong quá trình thực thi lệnh cấm thuốc lá điện tử sắp tới, thưa bà?

Tiến sĩ Angela Pratt: Việt Nam đã có kinh nghiệm thực thi thành công các biện pháp can thiệp y tế công cộng bao gồm bắt buộc đội mũ bảo hiểm xe máy và cấm lái xe sau khi uống rượu bia.

Một cách tiếp cận thực thi tương tự, với sự hỗ trợ thay đổi hành vi, cần được thực hiện để đảm bảo sự thành công của lệnh cấm thuốc lá điện tử và TLNN.

Như một ưu tiên trước mắt, WHO khuyến nghị Chính phủ tăng cường hỗ trợ giúp cho các cá nhân đang sử dụng các sản phẩm này có thể cai, ngừng sử dụng.

WHO khuyến nghị Chính phủ tăng cường các nỗ lực giám sát và thực thi, bao gồm đảm bảo ban hành nghị định xác định các hình phạt đối với các hành vi vi phạm quy định cấm, tổ chức các đoàn giám sát và thực thi thường xuyên, và áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với những người vi phạm lệnh cấm. Các nỗ lực thực thi nên tập trung vào nhiều hơn vào các nhà cung cấp các sản phẩm này, tức là các nhà nhập khẩu và người bán, hơn là đối với các cá nhân.

Các cán bộ chịu trách nhiệm thực thi cần được đào tạo để thực hiện các nhiệm vụ thực thi và kết quả tiến độ của việc thực thi phải được theo dõi và thông báo thường xuyên cho công chúng.

Để có hiệu quả, theo tôi việc thực thi đòi hỏi nỗ lực đa ngành, trong cả môi trường thực tế và trong môi trường trực tuyến.

- Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của bà!

Thanh Hà (thực hiện)